Thứ Ba, 28 tháng 1, 2014

Năm Ngọ nói chuyện Ngựa

Hình chụp tại Hội hoa xuân, vườn Tao Đàn, Sài Gòn

Mở đầu câu chuyện “Năm Ngọ nói chuyện Ngựa” tự nhiên tôi lại nghĩ ngay đến Lục súc tranh công mà ngày còn nhỏ đã phải học trong chương trình cổ văn ở trung học. Chuyện bằng thơ Nôm, kể sáu con vật nuôi trong nhà tranh nhau công trạng của mình. Trâu thì cho rằng mình phải làm ăn vất vả mới sinh ra thóc, gạo; Chó thì rằng có công coi nhà giữ trộm; Dê thì rằng có công trong việc tế lễ; Gà thì rằng có công gáy sáng, xem giờ; Lợn thì rằng có công trong việc quan, hôn, tang, tế… Đến anh lượt chàng ngựa người ta thấy ngay cái bản tính… “thẳng như ruột ngựa”:  

Ngựa nghe nói, tím gan, nổi phổi,
Liền chạy ra hầm hí vang tai:
"Ớ ! này, này, tao bảo chúng bay,
Ðố mặt ai dài bằng mặt ngựa?

Tuy rằng thú, cũng hai giống thú,
Thú như tao ai dám phen lê [phân bì]
Tao đã từng, đi quán, về quê,
Ðã ghe trận đánh nam, dẹp bắc.

Ông Cao Tổ năm năm thượng mã,
Mới dựng nên cơ nghiệp Lưu gia,
Ông Quan Công sáu ải thoát qua,
Vì cậy có Thanh Long, Xích thố

Các chú đặng ăn no, nằm ngủ,
Bởi vì ta cần cán, giữ gìn.
Khắn khắn lo nhà trị, nước yên,
Chốn chốn đặng nông bô lạc nghiệp.

Các chú những nằm trong xó bếp,
Tài các ngươi ở chốn quê mùa.
Ðừng đừng buông lời nói khật khù
Bớt bớt thói chê bai giớn giác.

Nếu tao chẳng lo trong việc nước,
Giặc đến nhà ai để chúng bay?
Thật biết một mà chẳng biết mười,
Chớ lừng lẫy cậy tài, cậy thế.

Nghe xong lời “điều trần” của ngựa, chủ nhà chỉ biết phán hai câu:

Ðại tiểu các hữu kỳ tài,
Vô đắc tương tranh nhĩ ngã.

Hai câu sau cùng đúng là “nho chùm nho trái” khiến bọn học trò chúng tôi còn phải học thêm câu diễn nôm: “Vật lớn vật nhỏ đều có một nghề tài giỏi riêng cho nên không được ganh tị lẫn nhau”.

Giống ngựa nổi tiếng Westphalian của Đức

Trong đoạn thơ vừa dẫn, anh chàng ngựa còn có một điều để tự hào về bản thân mình qua câu “Ðố mặt ai dài bằng mặt ngựa?” khiến người ta liên tưởng đến câu nói “đầu trâu mặt ngựa” để diễn tả những khuôn mặt “đen” của giới giang hồ có “số má”.

Nhưng chưa hẳn là vậy vì cũng khuôn mặt ngựa đã tạo nên một tài tử lừng danh chuyên đóng phim hài hước chiếu tại Sài Gòn vào thập niên 60. Đó là anh hề Fernandel, người Pháp. Ai đã coi phim có Fernandel đóng một lần là không thể quên được khuôn mặt này qua các bộ phim nổi tiếng như “Alibaba và 40 tên cướp” hoặc Don Camilo trong vai cha sở trong một làng miền Bắc nước Ý.

Fernandel nổi tiếng đến nỗi được Đức Giáo Hoàng Piô XII mời đến Vatican để ngài… “được gặp một linh mục danh tiếng nhất sau Giáo hoàng!”. Anh tên thật là Fernand Contandin, bà mẹ vợ thường giới thiệu anh với mọi người là “Contandin la Fernand d’elle” (Fernand chồng con gái tôi). Thế là Contandin lấy biệt danh Fernandel và trở thành vua hề nổi tiếng thế giới. Người ta kể có lần Fernandel đi dự đám ma, cái nét “mặt ngựa” của anh trong bầu không khí trang nghiêm khiến cho mọi người không khỏi bấm bụng cười thầm!
   
Fernandel với khuôn mặt... dài như mặt ngựa

Tiếng Việt quả là phong phú. Trong Lục súc tranh công có nhắc đến Xích Thố (ngựa đỏ) là tên con ngựa có bộ lông màu hồng do Quan Công cưỡi. Trái lại, ngựa đen tuyền người ta bảo đó là “ngựa ô”, chẳng hạn như trong bài dân ca Lý ngựa ô hay Ngựa ô thương nhớ có những câu như “Khớp con ngựa ngựa ô… Ngựa ô anh khớp, anh khớp cái kiệu vàng…”.

Tuy vậy, không thể áp dụng cách “suy ra” để nói con mèo đen là “mèo ô” mà phải là “mèo mun”, cũng tương tự với con chó có bộ lông màu đen phải là “chó mực” chứ không ai nói… “chó ô”! Người nước ngoài học tiếng Việt chắc phải điên đầu vì những trường hợp hắc búa như vậy.

Ngựa có nhiều màu sắc, nếu bộ lông màu trắng gọi là “ngựa bạch” hay còn gọi là “bạch mã”. Ngày nay các cô gái đến tuổi cập kê luôn mơ tưởng đến “bạch mã hoàng tử” cưỡi con ngựa trắng “phi nước đại” vào… cuộc đời của mình!

Trong Tây du ký của Lê Thừa Ân cũng có con ngựa trắng là đồ đệ thứ tư của Đường Tăng, sau Tôn Ngộ Không, Trư Ngộ Năng và Sa Ngộ Tĩnh. Con ngựa trắng có nguồn gốc từ con rồng nên được gọi là Bạch Long Mã hay Tiểu Bạch Long là con của Tây Hải Long Vương. Do có lỗi lầm nên Quan Thế Âm Bồ Tát đã cho phò giá Đường Tăng để chuộc tội.

Đường Tăng trên lưng Bạch Long Mã cùng 3 đồ đệ trên đường đến Tây Trúc

Ngựa có bộ lông màu đen pha đỏ đậm là “ngựa hồng” nhưng chắc chắn không thể nào sánh bằng con Xích Thố của Quan Vân Trường ngày xưa. Nếu lông nàu tím đỏ pha đen được gọi là “ngựa tía” và màu trắng sọc đen là “ngựa vằn”. Loại ngựa vằn này ngày nay người ta vẫn thắc mắc không biết đó là “con ngựa đen sọc trắng” hay là “ngựa trắng có sọc đen”.  

Ngựa vằn nổi bật với những vằn trắng và đen xen kẽ, chúng là loài động vật hoang dã sống theo bầy đàn, khác hẳn loài tương cận có quan hệ gần gũi như ngựa và lừa. Ngựa vằn Grevy ở châu Phi là loại ngựa hoang chạy nhanh nhất, đạt tới vận tốc 72km/giờ lúc bị săn đuổi.

Ngựa vằn

Tạo hóa thật trớ trêu vì đã sinh ra một con ngựa được đặt tên là Eclyse, đó là sự kết hợp của ngựa trắng và ngựa vằn. Tưởng chừng như có kẻ chơi ác phun sơn trắng xóa lên mình con ngựa, rồi giữa chừng bị bắt quả tang, gã bỏ chạy tháo thân để lại tác phẩm còn dang dở: chỗ trắng như tuyết, chỗ vằn vện loằn ngoằn.

Bộ lông trắng tuyết pha sọc vằn của ngựa Eclyse hoàn toàn là do sự xếp đặt ngẫu nhiên của tạo hóa. Eclyse đã trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý ở nông trại Schloss Holte Stukenbrock, nằm giáp ranh biên giới giữa Đức và Hà Lan. Chủ nông trại cho biết:

“Eclyse thừa hưởng sự pha trộn giữa hai dòng máu không chỉ về ngoại hình mà còn cả về tính cách. Bình thường nó tỏ ra hiền dịu, dễ dạy bảo chẳng khác gì ngựa mẹ Eclipse, nhưng đôi khi tính khí lại bất chợt hung hăng đúng như “phong cách” ngựa vằn của ông bố Ulysses!”.

Ngựa vằn Eclyse

Ngựa cũng đã đi vào tôn giáo. Đức Thích Ca Mâu Ni luận về bốn loại ngựa. Loại thứ nhất là loại ngựa tuyệt hảo. Ngay khi người chủ nhấc roi lên, nó sẽ biết là chạy hay dừng lại. Đây là loại ngựa “thượng hạng” có thể hiểu rõ mọi việc tận chân tơ kẽ tóc.

Loại thứ hai là loại ngựa tốt. Khi người chủ nhấc roi lên, nó không chạy ngay nhưng khi roi đụng vào mình nó thì nó sẽ hiểu. Loại thứ ba là loại ngựa bình thường. Nó không làm theo lệnh của chủ ngay cả khi bị quất roi. Chỉ khi người chủ điên lên và quất mạnh vào nó thì mới chạy. Loại cuối cùng là loại ngựa kém. Nó không chạy ngay cả khi bị quất roi mạnh. Người chủ không còn cách nào khác phải vụt thật mạnh làm nó đau thấu xương mới chạy.

Đức Phật sau đó thuyết giảng về 4 loại người tương ứng với loài ngựa. Loại thứ nhất cảnh giác khi biết được bản chất vô thường của cuộc sống, họ giống như loại ngựa thượng hạng. Loại thứ hai không nhanh nhạy nhưng sau khi chứng kiến cuộc sống thế gian hoa nở hoa tàn, trăng tròn rồi khuyết, đời người lúc thăng lúc trầm, họ cũng kịp thời tự giác. Họ giống như loại ngựa tốt.

Loại thứ ba phải mất nhiều thời gian hơn để học được một cách khó khăn và chỉ đến khi chịu đựng thống khổ hoặc chính bản thân họ gặp tai ương thì mới bắt đầu tỉnh ngộ. Loại cuối cùng nói đến những người không chịu hối tiếc cho đến khi bị ốm nặng đang trên bờ vực của cái chết. Lúc đó họ mong muốn có một cơ hội để sửa chữa những lỗi lầm đã mắc phải trong cuộc đời để có một sự khởi đầu mới nhưng đã quá muộn.

Ngựa Kan-Tha-Ka của Đức Phật Thích Ca

Trở lại Việt Nam, hình ảnh con dê được gán cho nam giới có tính trăng hoa, ưa tán tỉnh phụ nữ để rồi “quất ngựa truy phong”. Người bình dân hay dùng cụm từ “dê gái”, nếu tuổi đã cao mà còn ham “dê gái” thì bị gọi là “dê cụ”, “dê xồm” hay “dê đạo lộ”! Ngược lại, con ngựa lại là “biểu tượng” của những người phụ nữ thuộc loại “voi giày, ngựa xéo”. Bạn không tin ư?

Kho tàng văn chương bình dân có tiếng lóng “con ngựa”, thậm chí còn có cụm từ “con đĩ ngựa”, để ám chỉ những phụ nữ hiếu dục nhưng cũng có thể người bị cho là “ngựa” chỉ là cách gán ghép ác ý của những người trong cơn giận giữ. 

Người miền Trung còn dùng cụm từ “Con ngựa Thượng Tứ” mà nhà văn xứ Huế Nhã Ca giải thích trong một truyện cùng tên. Đây là đoạn đối thoại giữa hai người đàn ông, một lớn, một nhỏ:

- Bác ơi, người ta hay chửi "con ngựa Thượng Tứ" là nghĩa làm sao, bác."
- Ui chui choa. Tiếng đó nặng lắm nghe. Người ta chửi mấy con đĩ ngựa, mấy đứa con gái hư. Nguời ta chửi "đồ ngựa thượng tứ" là con nớ hết xài rồi, đồ gái thúi rồi. Cậu muốn biết thì tui kể cho mà nghe nì. Cửa Thượng Tứ là tên chính của cửa Chánh Tây, người mình gọi là Thượng Tứ, tại vì ở cửa thành ni có có trại huấn luyện ngựa, có rứa thôi…. Con ngựa tứ là con ngựa chạy giỏi. Trại ngựa này phải huấn luyện cho vua những con ngựa tứ chạy đã nhanh mà phải sải đều bốn vó. Con ngựa phải đẹp, lông mượt, chân dài, mắt tinh khôn…
- Ngựa tứ là ngựa đẹp, chạy giỏi, vậy tại sao nhiều cô con gái bị rủa là ngựa Thượng Tứ.
- Cũng không chỉ rứa mô, cậu nờ. Người ta còn noái hồi trước có Mã binh chuyên lo về ngựa. Ngựa thao diễn chạy từ cửa Thượng Tứ tới Gia Hội, từng đoàn rực rực, lồng lộn, ý nói mấy con tinh ranh lồng lộn tìm đực như ngựa cái đó cậu ơi.

“Con ngựa phải đẹp, lông mượt, chân dài, mắt tinh khôn…”

À ra thế. Ngựa Thượng Tứ nói khác đi chính là những con “mèo động đực” như dân gian thường ví von. Ở một khía cạnh khác, con ngựa cũng dính dáng một ý nghĩa xấu đối với những kẻ tham nhũng, phạm pháp vì họ phải ra trước “vành móng ngựa” mà tiếng Anh gọi là “bar of courts” hay “bar of judicature” được thiết kế giống như hình chiếc móng ngựa.

Tại sao lại gọi là “vành móng ngựa” chứ không phải là “vành móng trâu” hay “vành móng bò”? Có người giải thích hồi xưa ở La Mã, khi xử tội, trừng trị các phạm nhân, người ta thường dùng ngựa để xé xác hoặc dày xéo lên thân thể của họ. Bên Tàu cũng có hình thức “tứ mã phanh thây”, tàn bạo không kém gì thời La Mã xưa.

Vành móng ngựa

“Vành móng ngựa” là biểu hiện một điềm xấu nhưng người Tây Phương lại tin tưởng rằng chiếc móng ngựa hình chữ U là vật linh thiêng mang lại sự may mắn. Người ta treo móng ngựa trước cửa để xua đuổi ma quỷ, ngăn cản điều ác và cái xấu vào nhà.

Móng Ngựa trong năm 2014 là một biểu tượng được thiết kế đặc biệt qua các bộ sưu tập thời trang cho thấy mối quan tâm trong năm Giáp Ngọ tại thị trường thời trang Châu Á. Từ quần áo cho đến đồ trang sức, từ Chloe cho đến Hermes, từ cao cấp cho đến bình dân, biểu tượng Móng Ngựa đã làm một cuộc xâm lăng ngoạn mục.

Móng ngựa và thời trang

Thập niên 60-70 vào thời trẻ của nhiều người, trong đó có tôi, rất khoái nhân vật truyện tranh Lucky Luke [1],với biệt danh “bắn nhanh hơn cái bóng của mình”. Lucky Luke “một mình một ngựa” lang thang khắp miền Tây nước Mỹ vào cuối thế kỷ 19 để bảo vệ công lý và lẽ phải. Đồng hành với chàng cao bồi này là Jolly Jumper, được mệnh danh là “chú ngựa chạy nhanh nhất miền Tây”. Là con ngựa đặc biệt, Jolly Jumper biết đi trên dây, thông minh tới mức cùng chơi cờ với Lucky Luke và khi nói chuyện có thể trích dẫn cả văn học.

Jolly Jumper nhiều lần cứu Lucky Luke thoát khỏi những cảnh ngộ khó khăn nhưng hai nhân vật này thường xuyên trêu trọc nhau. Có lần Jolly Jumper “chọc quê” Lucky Luke soi gương trước khi đi gặp người đẹp, chàng cao bồi chê lại Jolly Jumper “ở truồng” vì chú ngựa này trên mình “chỉ có một cái yên nhỏ che thân”.

Jolly Jumper đánh cờ với Lucky Luke, chú chó Rantanplan nằm… gặm quân cờ

Người Phương Tây còn coi ngựa là một trong những chòm sao được hình tượng hoá qua người bắn cung Sagittarius xuất hiện dưới dạng hình “nhân mã”, cũng tương tự như cung Ngọ trong mười hai cung của phương Đông. Từ con vật đời thường, với bản tính tốt đẹp mà con người đã gán cho nó, thần thánh nó, huyền thoại nó, ngựa đã trở thành hình tượng nghệ thuật, trở thành con vật linh thiêng, hoá thân vào đời sống văn hoá tâm linh.


Nàng Godiva cưỡi trên một con ngựa trắng, tranh của John Collier

Về nhân tướng, theo quan niệm của Phương Đông, những người sinh năm con ngựa thường có cá tính phóng khoáng, không căn cơ, có năng lực suy nghĩ độc lập và ít để bụng, “thẳng như ruột ngựa!”. Gặp việc gì họ cũng thường bắt tay làm ngay, không chần chừ do dự. Nhưng chính sự nhanh nhẹn đó lại cấu thành điểm yếu của họ: nóng vội và thiếu kiên nhẫn thành thử mới có câu “ngựa non háu đá”.

Nhân nói về ngựa đá, người Nga có lời khuyên: “Hãy cẩn thận khi đứng phía trước con dê, cẩn thận khi đứng phía sau con ngựa và với con người thì đứng bất cứ phía nào cũng phải dè chừng”. Chỉ khi nào mắt nhắm tay xuôi người ta mới chợt nhận ra chân lý: “ngựa chết là ngựa không đá”.   

Đó là một bài học thâm thúy về con người, chúa tể của muôn loài. Cũng từ ngựa ta có một chuyện đáng để suy gẫm trong Cổ học Tinh hoa: “Tái ông thất mã” [2]. Nếu ai cũng giữ được thái độ “dửng dưng” như ông già họ Tái khi mất ngựa thì cuộc đời sẽ trở nên đơn giản vì mất đó lại được đó, vui buồn cứ kéo đến rồi đi, có lúc lên xe, xuống ngựa” nhưng cũng có lúc phải “làm thân trâu ngựa”.

Nhân dịp năm mới Giáp Ngọ, người viết bài này chỉ xin chân thành chúc bạn đọc giữ được tâm “ung dung tự tại” trước những biến cố của cuộc đời vì trong cái rủi luôn có cái may.

***

Chú thích:

[1] Lucky Luke là chàng cao bồi, nhân vật chính trong bộ truyện tranh cùng tên do họa sĩ người Bỉ Morris sáng tác từ năm 1946. Những truyện Lucky Luke đầu tiên được in trên báo Spirou tiếp đó Pilote, trước khi được phát hành dưới dạng tập truyện tranh. Những tập truyện tranh này thành công rực rỡ, phát hành 270 triệu bản qua 31 thứ tiếng.

Hình ảnh không đổi cuối mỗi tập truyện là Lucky Luke cưỡi chú ngựa Jolly Jumper đi về phía cuối chân trời và hát bài "Tôi là gã cao bồi nghèo đơn độc, rong ruổi trên đường dài xa quê hương, mà đường về nhà còn xa..." bằng tiếng Anh:

“I'm a poor lonesome cow-boy
And a long far way from home”

Tượng Lucky Luke và Jolly Jumper tại Charleroi (Bỉ) nơi các nhân vật chuyện tranh ra đời như Spirou, Luky Luke, Marsupilami, Ball and Bill…

[2] Đọc thêm về chuyện “Tái ông thất mã” qua bài viết “Góp nhặt buồn vui thời cải tạo” tại http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/gop-nhat-buon-vui-thoi-cai-tao.html

***

Bình luận trên FB:



***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 10: Thời xuống lỗ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)

Tác giả đang viết tiếp Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
--> Read more..

Thứ Sáu, 24 tháng 1, 2014

Ngọc Lan - tiếng hát một loài hoa… bạc mệnh

Ngày nay, giới showbiz trong nước thỉnh thoảng vẫn xuất hiện một vài cái tên quá quen thuộc với người nghe nhạc đứng tuổi, nhưng kỳ thật đó chỉ là việc sử dụng những “nghệ danh” của lớp ca sĩ đi trước. Sự trùng hợp tên tuổi này có thể là vô tình nhưng chắc chắn cũng có những trường hợp “kẻ hậu sinh” cố ý dùng một cái tên nổi tiếng một thời để tiến bước vào làng ca nhạc.

Nói theo ngôn ngữ bình dân, những trường hợp trùng tên như vậy được coi như “dựa hơi”… chẳng hạn như cái tên Thanh Thúy, một ca sĩ có giọng hát “liêu trai” của Sài Gòn xưa đã một thời khiến nhiều người phải “mê mệt”, họ thuộc lứa tuổi U-60, U-70, thích những bài hát như Nửa đêm ngoài phố, Phố đêm, Phố buồn...  

Giờ chỉ cần gõ hai chữ “Thanh Thúy” trên Wikipedia ta có ngay 3 nhân vật khác nhau: (1) Thanh Thúy sinh 1943, ca sĩ ở miền Nam Việt Nam thập niên 1960 và tại hải ngoại sau năm 1975; (2) Thanh Thúy sinh 1977, ca sĩ và diễn viên từng đạt Giải nhất Ngôi sao Tiếng hát Truyền hình năm 1994, Giải nhất Tiếng hát Truyền hình toàn quốc 1997, đồng thời là diễn viên trong một số bộ phim; và (3) Thanh Thúy sinh năm 1982, diễn viên truyền hình & sân khấu kịch từng đoạt nhiều giải trong HTV Awards 2008, từng tham gia trong bộ phim Lọ lem thời @Nhiệm vụ đặc biệt...

Hiện tượng trùng tên cũng được lập lại với Ngọc Lan. Trên Google, gõ tên Ngọc Lan tôi nhận được khoảng 1.010.000 kết quả trong vòng 0,55 giây. Trong số những kết quả này, một phần nhỏ dành cho ca sĩ “đương thời” Ngọc Lan, người Hà Nội. Cô thường xuyên biểu diễn và giới thiệu tác phẩm mới của các nhạc sĩ hội Âm nhạc Hà Nội trên Đài phát thanh-truyền hình Hà Nội.

Đa số phần kết quả còn lại nói về ca sĩ Ngọc Lan tại hải ngoại, một ca sĩ nổi tiếng mà bài viết này đề cập đến. Sẽ có không ít các bạn trẻ ở trong nước chưa được nghe Ngọc Lan hát và không chừng chưa từng biết ngoài cái tên Ngọc Lan “Hà Nội” còn có một cái tên Ngọc Lan ở… hải ngoại.   

Wikipedia không tiếc lời ca tụng Ngọc Lan “hải ngoại”: “Không chỉ với giọng hát, cô còn được khán giả đặc biệt yêu mến vì khuôn mặt khả ái và tính cách nhút nhát, khiêm tốn của mình. Ngọc Lan được cho là một trong những ca sĩ thành công và nổi tiếng nhất của nền âm nhạc Việt Nam sau năm 1975 mà cho tới nay vẫn chưa có một nghệ sĩ nào lặp lại được trường hợp tương tự. Phong cách và lối trình diễn của cô không chỉ để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng giới thưởng ngoạn mà còn góp phần ảnh hưởng đến các tiếng hát thuộc thế hệ trẻ sau này tại nước ngoài như Minh Tuyết, Y Phương, Lâm Thúy Vân...

Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh nhận xét: "Trong số những giọng ca chúng tôi bắt gặp trước năm 1993 tại hải ngoại thì giọng hát, cách hát của Ngọc Lan đã gây trong tôi một ấn tượng rất sâu sắc. Lúc đó tôi đã nghĩ rằng cô Ngọc Lan đã tạo ra một trường phái mang tên… Ngọc Lan ở nước ngoài".

Ngọc Lan (1956-2001)

Ngọc Lan tên thật là Lê Thanh Lan, có tên Thánh là Maria, sinh ngày 28/12/1956 tại Nha Trang. Cô là người thứ năm trong gia đình có 8 người con, cha của cô, ông Lê Đức Mậu, đã từng phục vụ trong binh chủng Truyền tin của Quân Lực VNCH. Khi còn ở Việt Nam, cô đã từng theo học ở trường Lý Thường Kiệt, vùng Hốc Môn, ngoại ô Sài Gòn.

Năm 1980 Ngọc Lan vượt biển đến Laemsing, Thái Lan, và sau đó định cư tại Minnesota, Hoa Kỳ. Hai năm sau, cô thực sự bắt đầu sự nghiệp ca hát ở California. Lê Thanh Lan bước vào thế giới ca nhạc với cái tên Ngọc Lan vì tên thật của cô trùng với ca sĩ Thanh Lan đã nổi tiếng từ trước 1975 tại Sài Gòn.

Qua sự giới thiệu của ca sĩ Duy Quang, cô đã hát tại một số quán cà phê nhạc và các buổi biểu diễn văn nghệ nhỏ. Cố ca sĩ Duy Quang nhớ lại: “Tôi đã nghe lại một số bài hát của Ngọc Lan và thấy là những bài đó rất tuyệt vời, tôi nghĩ là tôi sẽ không quên được Ngọc Lan trong trái tim của tôi”.

Trong những buổi đầu đi hát hình như Ngọc Lan chỉ nhắm vào mục đích kiếm thêm tiền phụ giúp gia đình đồng thời trang trải việc học hành. Ba đêm cuối tuần đầu tiên trong cuộc đời ca hát tại quán Hoài Hương cô nhận được thù lao $35 nhưng sau một thời gian “hành nghề tay trái” cô đã từng có ý định bỏ nghề ca hát để về phụ gia đình bán hamburger.

Một lý do khác nữa có thể là Ngọc Lan cảm thấy thanh quản của mình không cho phép cô hát nhiều. Có lẽ cũng vì thanh quản “có vấn đề” nên giọng ca của Ngọc Lan trở nên đặc biệt, không giống một ca sĩ nào. Giọng của Ngọc Lan qua thanh quản phát ra những âm thanh trong trẻo, phần nào được thể hiện qua giọng mũi.

Nhiều người còn ví Ngọc Lan hát tự nhiên như… “giọng hát trẻ thơ”, hát như nói chuyện, hát dễ dàng như ta thở. Giọng ca đặc biệt đó không có âm vực sâu và cũng không có độ ngân dài hay độ luyến láy phong phú như phần đông các ca sĩ khác. Thế nhưng, người nghe vẫn cảm nhận được sức hút của giọng hát mỗi khi Ngọc Lan cất tiếng. Thêm vào đó là sự quyến rũ của ngoại hình với mái tóc uốn quăn, lọn nhỏ được đánh rối một cách khéo léo khiến khán giả hoàn toàn bị Ngọc Lan chinh phục.

Người ca sĩ Tài & Sắc vẹn toàn

Người ca sĩ nào cũng cần hội đủ cả hai yếu tố Ngoại hình và Giọng hát mới đủ sức chinh phục khán giả. Thanh và Sắc kết hợp với nhau để biến ca sĩ thành hình tượng của công chúng, kém “sắc” thì chỉ hát qua làn sóng điện hay ghi âm trên đĩa hát… đó là những trường hợp ca sĩ “hẩm hiu” tựa như anh đánh cá Trương Chi có tiếng sáo tuyệt vời nhưng ngoại hình lại xấu xí trong truyện dân gian Trương Chi-Mỵ Nương. 

Một fan hâm mộ Ngọc Lan mô tả: “Cô có một làn da trắng nõn nà như lai người Tây Phương. Khuôn mặt trái soan, sống mũi dọc dừa, cặp mắt bồ câu luôn đượm nét u buồn ướt mi và miệng viền trái tim. Lông mày rậm với mái tóc uốn cong dài và dầy làm tăng vẻ đẹp của một tuyệt sắc giai nhân…”

Ngọc Lan đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp âm nhạc khi cộng tác với Trung tâm Mây Productions. Những đĩa CD mang tên Ngọc Lan ồ ạt ra mắt người hâm mộ đến độ Mây Productions phải đánh số thứ tự, khởi đầu là CD Ngọc Lan 1 mang tựa đề Như em đã yêu anh được thực hiện năm 1989, tiếp đến là Ngọc Lan 2: Mặt trời bên kia mùa hạ (1991)…

Có đến hơn một chục CD mang tên Ngọc Lan phát hành độc quyền với Mây Productions với giá bán lẻ từ $9.95 đến $12.95 vì lý do đĩa hát của Ngọc Lan “ăn khách” và trung tâm này trả tiền cát-sê cao cho ca sĩ. Đến năm 2001, Mây Productions bị phá sản vì nạn… sang băng đĩa lậu.

CD Ngọc Lan 4: Tình xanh

Cuối thập niên 80 người nghe và xem ca nhạc tại hải ngoại khao khát sự xuất hiện của những khuôn mặt mới, giọng ca mới sau một thời gian cảm thấy bị “bội thực” vì những tên tuổi đã thành danh tại Sài Gòn trước năm 1975 như Khánh Ly, Khánh Hà, Tuấn Ngọc, Duy Quang, Sĩ Phú, Elvis Phương…

Không ai phủ nhận tài năng của Ngọc Lan nhưng một trong những yếu tố giúp cô ca sĩ này thành công lại còn tùy thuộc vào thời điểm xuất hiện để được coi là “người mở đầu một một trường phái” như nhạc sĩ Trần Thiện Thanh đã ca tụng. Trường phái đó còn được gọi là “dòng nhạc hải ngoại” với sự góp mặt của Don Hồ, Kiều Nga, Lưu Bích, Linda Trang Đài… qua nhạc trữ tình, kể cả New Age, New Wave, Jazz, Rock, Pop và cả Rap sau này.

Từ năm 1987 Ngọc Lan trở thành một trong những “ca sĩ hàng đầu tại hải ngoại” và vị trí này được lập lại liên tiếp trong 4 năm. Một lý do khác nữa giải thích cho sự thành công của Ngọc Lan là khả năng hát những bản nhạc ngoại quốc bằng tiếng Pháp, tiếng Anh hoặc những bản nhạc nước ngoài được chuyển ngữ sang tiếng Việt.

Ngọc Lan đã thành công với các bản nhạc Pháp như Vivre pour toi, mourir pour toi (Tất cả cho anh), La Maritza (Dòng sông tuổi nhỏ), Mal de toi (Đau đớn riêng em), Il pleut sur Bruxelles (Tình đến rồi đi), Je ne purrais jamais t’oublier (Mưa trên biển vắng), Tombe la neige (Tuyết rơi)… Bên cạnh đó là những bản nhạc tiếng Anh cũng được Ngọc Lan khai thác như Love is blue (Tình xanh), Whenever you come to me (Khi anh gần em), Prisoner (Đọa đầy)…

Trong ca khúc Pháp, Joe le taxi, Ngọc Lan cho thấy ngoài giọng ca điêu luyện, diễn xuất tươi trẻ, cô còn là một vũ công “có hạng” bên những vũ công chuyên nghiệp trên sân khấu. Cô biểu diễn những bước cha-cha-cha, rumba, mambo thật điệu nghệ, không thua gì những vũ nữ trên sàn nhảy.

Joe le taxi

Nữ ca sĩ Kiều Nga (em gái Elvis Phương) kể lại những kỷ niệm khi song ca với Ngọc Lan. Đó là lần hai người hát chung bài Toi jamais (Anh thì không) của Mây Productions (khi đó gọi là Hollywood Night) được nhạc sĩ Vũ Xuân Hùng viết lời Việt với nội dung so sánh những người đàn ông:

“Anh ta cho xe hơi với nữ trang, thêm kim cương với áo lông… Anh thì không… Anh ta luôn âu yếm em nhưng sao em không nhớ nhung, không rung động… Thế gian, nghìn đàn ông giống nhau, trọn đời anh giống như đàn ông khác. Vì đã yêu, thì dù anh thế nào, vạn lần em vẫn thứ tha cho người…” 

Vào cuối bài, cả hai cô ca sĩ được các nam vũ công “công kênh” trên vai. Khi đó, Kiều Nga kể lại, trong lòng thật sự hai cô chỉ lo bị rớt xuống đất… rồi lại còn lo áo đầm quá bó quá có thể bị sút đường chỉ thì đúng là… bể dĩa.

Ngọc Lan & Kiều Nga trong “Toi Jamais”

Một đặc điểm nữa rất ít người để ý là trong một số bài hát Ngọc Lan trình bày ngoài kỹ thuật hòa âm, phối khí còn có giọng hát bè rất điêu luyện của những người dấu mặt, đứng sau lưng người ca sĩ chính. Họ là những người “thầm lặng” góp phần thành công cho những bài hát được Ngọc Lan lựa chọn.

Cũng vào thời kỳ “vàng son” này cô cũng được mời lưu diễn khắp năm châu. Tại Úc Châu, chương trình Đêm Ngọc Lan là một thành công “ngoài sức tưởng tượng” theo đánh giá của báo Chiêu Dương (ngày 14/9/1990):    

“Qua 3 đêm trình diễn tại Sydney và Melbourne, 2 thành phố lớn nhất của Úc Châu, nữ ca sĩ Ngọc Lan đã thành công rực rỡ. Tất cả các show đều đông nghẹt khán giả, hơn 400 khán giả đã phải ra về vì hết vé tại Bankstown Town Hall (Sydney). Tại Melbourne, hơn 1500 khán giả đã phải đứng để xem Ngọc Lan trình diễn. Hơn 300 khán giả phải ra về vì Hall không còn sức chứa! Có thể nói nữ ca sĩ tài sắc vẹn toàn Ngọc Lan đã làm nên “lịch sử” vì hơn 8 năm nay, từ lúc có các chương trình ca nhạc tại Úc Châu, đây là Show đông đảo khán giả nhất đã dành cho nữ ca sĩ Ngọc Lan”.

Ngọc Lan còn ở lại Úc thêm một tuần “ngoài kế hoạch” để thực hiện Dạ Vũ Ngọc Lan Giã Từ Úc Châu, những người tổ chức giải thích: “Thể theo lời yêu cầu của nhiều vị khán giả chưa xem đuợc các đêm trình diễn vừa qua vì hết vé, nữ ca sĩ số 1 Ngọc Lan quyết định ở lại Úc Châu thêm một tuần nữa…”. Đây là một hiện tượng “cháy vé” có một không hai trong giới ca nhạc tại hải ngoại.

Ký giả Tô Kiều Phương viết về Ngọc Lan: “Đó là một tiếng hát mật ngọt, một tia nắng vàng, một cơn mưa hạ… đã đi sâu vào lòng từng người và từng gia đình Việt Nam chúng ta”.

Có thể nói, Ngọc Lan thành công ở nhiều thể loại nhạc cũng như dòng nhạc. Theo một số người sưu tầm nhạc, cô đã trình bày trên 800 ca khúc và thực hiện được xấp xỉ 40 video clip. Con số hạn chế về video được chính cô giải thích là “do bản tính nhút nhát trước ống kính”.  

Mãi đến năm 1992 mới đánh dấu việc thu hình trực tiếp đầu tiên của Ngọc Lan trên sân khấu ca nhạc qua chương trình Hollywood Night 1 với ca khúc Mưa trên biển vắng. Cũng trong dịp này, MC Nam Lộc có một cuộc phỏng vấn chính thức đầu tiên được thực hiện tại Irvine, CA, vào tháng 10/1992.

Nam Lộc hỏi cô có ý định đóng phim hay không? “Ngọc Lan rất muốn có cơ hội để phát triển khả năng của mình trên mọi lĩnh vực. Thứ nhất là để thỏa mãn đam mê nghệ thuật của chính mình. Thứ hai là Ngọc Lan hy vọng sẽ đóng góp một phần nhỏ nào đó trong nghệ thuật thứ 7 của Việt Nam…”

Được hỏi về mẫu người đàn ông “lý tưởng” của mình, Ngọc Lan đã khiến khán giả ngạc nhiên với câu trả lời: “Có lẽ Lan nghĩ là nhân vật Dũng trong tác phẩm Đọan Tuyệt của Khái Hưng… Ở nhân vật Dũng, Ngọc Lan tìm thấy một người đàn ông sống có lý tưởng, có mục đích cao cả. Ngoài tình cảm mà Dũng dành cho người yêu của mình, anh còn có một tình cảm bao la dành cho quê hương, tổ quốc….” 

Nam Lộc phỏng vấn Ngọc Lan

Nhạc sĩ Nhật Ngân, tác giả bản dịch lời bài hát Mưa trên biển vắng hồi tưởng: “Kỷ niệm mà tôi nhớ nhiều nhất là khi đưa bài ‘Mưa trên biển vắng’ cho cô Ngọc Lan hát, đó là một bài nhạc nước ngoài mà trung tâm May Productions đưa tôi viết lời. Khi viết lời xong, Ngọc Lan nói: ‘Anh viết bài này mang hẳn tâm sự của em nên em nghĩ đây là bài hát anh viết riêng cho em…’ Ban đầu tôi cứ nghĩ Ngọc Lan nói là để gây cảm tình với tôi, nhưng sau đó thật sự Ngọc Lan đã hát bài đó rất là… “tới”… tôi nghĩ đó là tâm sự thật của Ngọc Lan”.

Trong bản nhạc Xin thời gian ngừng trôi cũng của nhạc sĩ Nhật Ngân người ta thấy Ngọc Lan xuất hiện với mái tóc vấn cao, khác hẳn hình ảnh mái tóc “rối bời” buông xõa. Trang phục của cô là một bộ “xường xám” xẻ hai bên với họa tiết lá trúc màu đen. Ngọc Lan đã tiếp cận khán giả bằng một phong cách trình diễn mới, trang phục lạ và những lời ca não nuột:

“Sao thời gian cứ trôi mau. Sao rượu nồng bỗng chua cay. Sao tình còn đang ngất ngây say, mà chợt nghe sầu ngăn cách. Anh ơi uống đi anh, giọt đắng thấm tràn khóe môi. Lệ nào chớ rơi, đường khuya vắng, âm thầm đi về”.

Xin thời gian ngừng trôi

Trong Hollywood Night 2 (tại Irvine, CA, này 18/8/1992) Ngọc Lan trình diễn Và con tim đã vui trở lại của nhạc sĩ Đức Huy trên một sân khấu dàn dựng khác lạ: chỉ vỏn vẹn 6 cây khô trụi lá, thân cây màu trắng làm nổi bật chiếc váy maxi màu đỏ. Rồi xuất hiện cảnh hai em bé mặc áo trắng tượng trưng cho thiên thần cầm nến đi trên một lớp khói. Người ta liên tưởng đến một hình ảnh tôn giáo mà người nhạc sĩ đã gửi gấm qua ý nghĩa tìm lại được đức tin và sự cứu rỗi:

“Và bây giờ, ngày buồn đã qua, nhiều lỗi lầm cũng được thứ tha. Tình yêu đã đến trong ánh nắng mai, xóa tan màn đêm u tối, cho tôi biến đổi tâm hồn thành một người mới… Tôi sẽ không sợ hãi gì vì Người gần bên tôi mãi… Và con tim đã vui trở lại…”.   

Trong cuộc phỏng vấn tiếp sau bài hát, MC Trần Quang đã hỏi cơ hội nào, hoàn cảnh nào đã đưa đẩy Ngọc Lan thành một ca sĩ? Ngọc Lan cho biết mỗi người có một “nghiệp dĩ”… từ một tình cờ này nối tiếp một tình cờ khác nên ngày hôm nay cô đã trở thành một ca sĩ mang tên Ngọc Lan.

Và con tim đã vui trở lại

Trong video Mùa hè năm ấy của nhạc sĩ Khúc Lan, MC Trần Quang có nêu một trường hợp giả định: người yêu của Ngọc Lan không cho cô đi hát nữa, cô sẽ xử trí làm sao? Ngọc Lan đã lần lượt đưa ra những giải pháp: đầu tiên là năn nỉ (có rất nhiều cách nhưng không tiện nói ra!), rồi dùng “vũ khí tối hậu của người đàn bà: năn nỉ bằng nước mắt”, nếu vẫn không thành công thì… “anh à, nếu anh không cho đi hát nữa thì Ngọc Lan sẽ… chết”.

Mùa hè năm ấy

MC Kỳ Duyên kể lại một góc khuất cuộc đời của Ngọc Lan, vốn là người sống nhiều vì tình cảm nhưng trên con đường tình lại không được may mắn. Đã nhiều lần tâm sự với Ngọc Lan nên Kỳ Duyên biết được ngay từ mối tình đầu tiên đã giang dở, đã tốn nhiều nước mắt. Ngay cả nụ cười của Ngọc Lan cũng phảng phất một nỗi buồn u uẩn khiến mọi người, nhất là anh chị em nghệ sĩ, luôn cảm thấy cần phải… “xúm vào lo cho Ngọc Lan”.

Kỳ Duyên nhớ lại một chuyến đi trình diễn thành công, trên đường về hai chị em ngồi trên máy bay nhưng Ngọc Lan đã khóc sướt mướt. “Khóc tới nỗi mà ông stewardess phải đưa khăn kleenex và an ủi “a beautiful lady like yourself shouldn’t cry too much”

Tôi hơi ngạc nhiên vì câu chuyện của Kỳ Duyên. Không phải chuyện về Ngọc Lan mà là chuyện Kỳ Duyên nói “ông stewardess”. Một người đã ăn học tại Mỹ từ nhỏ đến khi ra trường lại là luật sư mà Kỳ Duyên còn lẫn lộn giữa steward và stewardess. Cũng khá ngạc nhiên khi Mây Productions đã để cuốn băng có “hạt sạn” này khi ra mắt người xem.

Trở lại với Ngọc Lan, tháng 12/1994 cô kết hôn với Mai Đăng Khoa, tức nhạc sĩ Kevin Khoa, chơi keyboard trong ban nhạc Bolero. Ban nhạc này hiện diện trên video Paris By Night 15 vào năm 1992. Theo nguồn tin chưa được kiểm chứng thì Kevin Khoa trẻ hơn ca sĩ Ngọc Lan khoảng 4 tuổi và đây là cuộc hôn nhân đầu tiên của ca sĩ Ngọc Lan.

Từ đó trở đi, cô vẫn tiếp tục sinh hoạt văn nghệ nhưng không còn mạnh mẽ như những năm đầu thập niên 90 vì sức khỏe không cho phép. Ngọc Lan thỉnh thoảng vẫn còn xuất hiện trong các băng video cho các trung tâm ca nhạc như Hollywood Nights, Asia nhưng hầu hết là các clip quay ngoại cảnh thay vì trên sân khấu.

Năm 1993 không thấy Ngọc Lan xuất hiện nhưng một năm sau người yêu nhạc lại thấy cô trong chương trình mang tên Ngọc Lan và thính giả thương yêu tại Anaheim. Khán giả tinh ý nhận xét thấy cô có phần nào suy sụp tinh thần và tiếng hát của cô không còn như xưa.

Trong năm 1996, trong lần thu hình trong cuốn video 12, Việt Nam Niềm Nhớ, của trung tâm Asia tại Toronto, trước hàng ngàn khán giả, Ngọc Lan phải có người nắm tay đưa lên sân khấu. Người ta giải thích có hai nguyên nhân cho sự suy sụp đó: bệnh tình của bản thân cô và sự qua đời đột ngột của người chị gái trước đó không lâu. Trên trang Facebook, Bác sĩ Lê Trung Ngân tiết lộ một số điều về bệnh tình của Ngọc Lan:

“Vào khoảng năm 1999 tại Việt Nam có tin đồn Ngọc Lan đã qua đời vì chứng bệnh Diabetic [tiểu đường], nên nghệ sĩ Nam Lộc đã dành một cuộc phỏng vấn cho vợ chồng Ngọc Lan trong chương trình truyền hình của đài Văn Nghệ VN Television vào một sáng thứ Bảy.

Có nhiều lời đồn về bệnh tình của Ngọc Lan khi thấy mắt cô bị kém thị lực. Nhưng sự thật cô bị bệnh thuộc dạng “The Demyelinating Diseases” mà trong danh từ y khoa Medical Term là M.S. có nghĩa là Multiple Sclerosis – bệnh này phá hỏng hệ thống thần kinh, làm cho các vỏ bao bọc dây thần kinh bị hủy hoại – đây là một loại bệnh hiện chưa có thuốc chữa, chỉ dùng thuốc Prednisone để kéo dài thời gian – y khoa không biết nguyên nhân từ đâu – bệnh này hiếm thấy ở người Á Châu và Phi Châu, và thường có tỉ lệ cao đối với phụ nữ.


Ngày 6/3/2001 Little Saigon TV phát đi bản tin: “Một trong những tiếng hát đã đi sâu vào lòng giới yêu âm nhạc, ca sĩ Ngọc Lan vừa từ trần ngày 6/3/2001, lúc 8g25 sáng, tại bệnh viện Vencor, hưởng dương 44 tuổi…”. Ngày 10/3/2001, Đài truyền hình Văn nghệ Việt Nam đã tường thuật lễ tang ca sĩ Ngọc Lan vào lúc 10g sáng tại thánh đường Holly Spirit tức nhà thờ Thánh Linh.

Gần 1.000 chỗ ngồi bên trong giáo đường và hàng trăm người phải đứng bên ngoài tham dự buổi lễ. Còn có hàng trăm người đã đến thẳng nghĩa trang The Good Shepherd Cemetery (Nghĩa trang Chúa Chiên Lành) tại thành phố Huntington Beach để đợi chờ tiễn đưa người ca sĩ khả ái, đa tài và hiền hậu.

Kelvin Khoa, ông bà Lê Đức Mậu và chị gái của Ngọc Lan

Hai buổi chiều trước đó cơn mưa bão cuối đông lạnh lẽo đã bao trùm thành phố nhưng hàng ngàn người cũng đã đội mưa đến nhà quàn để nhìn mặt Ngọc Lan lần cuối cùng. Có thể coi đây là một đám tang có nhiều người tham dự nhất dành cho một nghệ sĩ,  mặc dù nữ ca sĩ Ngọc Lan đã tự lui vào bóng tối từ nhiều năm qua.

Ôi buồn thay cảnh sinh ly tử biệt
Chốn trần ai sống gửi thác về


***

Tham khảo:

·         Video  Ngọc Lan - Như là một kỷ niệm (http://www.youtube.com/watch?v=NiCPAMkbCwU)
được Mây Productions thực hiện tháng 3/2001 là tổng hợp những đoạn clips nổi bật nhất của Ngọc Lan trong cuộc đời ca hát. Trong VCD này có rất nhiều đoạn ký ức của các nhạc sĩ và ca sĩ đã từng hợp tác với Ngọc Lan như nhạc sĩ Nhật Ngân, Hoàng Thi Thơ, các ca sĩ Duy Quang, Kiều Nga, Thúy Vi... Bên cạnh đó là những lời giới thiệu và phỏng vấn của các MC Nam Lộc, Trần Quang, Kỳ Duyên…    

·         Tuyển tập những bài hát hay – Ngọc Lan (12 bài)

***

Bình luận trên FB:


***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 10: Thời xuống lỗ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)


Tác giả đang viết tiếp Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
--> Read more..

Thứ Hai, 13 tháng 1, 2014

Đầu năm nói chuyện… tham nhũng & hối lộ

Không phải là tình cờ mà tôi chọn đề tài “tham nhũng & hối lộ” để khai bút muộn, mừng năm mới 2014. Thay vì những đề tài nhẹ nhàng, vui vẻ hơn, tôi chào đón năm 2014 với một vấn đề gây bức xúc trên toàn thế giới từ bấy lâu nay đến độ Liên Hiệp Quốc phải vào cuộc. Ngày 31/10/2003 tổ chức quốc tế này đã thông qua Nghị quết 58/4 với tên gọi “Công ước Liên Hiệp Quốc phòng chống tham nhũng” có nguyên gốc tiếng Anh là United Nations Convention Against Corruption, được viết tắt là UNCAC.

Hiệp ước có hiệu lực từ ngày 14/12/2005, sau khi hội đủ 30 quốc gia đầu tiên phê chuẩn. Tính đến ngày 1/7/2009, đã có 140 chữ ký phê chuẩn, chấp nhận và chấp thuận của 136 quốc gia. Gần đây nhất là Việt Nam cũng đã phê chuẩn UNCAC vào ngày 19/8/2009.

Để chống lại tham nhũng, công ước quy định những quy ước và chuẩn mực chung về các vấn đề chính bao gồm: 

  1. Công tác phòng chống tham nhũng; 
  2. Hình sự hóa tội phạm tham nhũng; 
  3. Thu hồi tài sản bị thất thoát và 
  4. Hợp tác quốc tế và hỗ trợ kỹ thuật.

Mối tương quan giữa tham nhũng và hối lộ

Tham nhũng và hối lộ luôn luôn “đồng hành” như hình với bóng nhưng lại có hai phạm trù riêng biệt: một bên “đưa” và một bên “nhận”, người có chức, có quyền mới tham nhũng và những kẻ yếu thế hơn mới đưa hối lộ. Hiện tượng này xảy ra trên khắp thế giới, ở cả các nước giàu cũng như nghèo, tiến bộ cũng như chậm tiến. Tham nhũng và hối lộ cũng diễn ra vào bất cứ thời đại nào, từ cổ chí kim, nhưng chưa ai có thể xác định tệ nạn này bắt đầu từ đâu và từ bao giờ.   

Học giả Vương Hồng Sển [*] đã viết trong tác phẩm Hơn nửa đời hư như sau: “Hối lộ là một độc dược thâm căn cố đế, mọc gốc mọc rễ từ nhiều đời, không biết Đông có trước hay Tây có trước, duy biết nay đã tràn đồng, nước nào cũng có, đời nào cũng có, dây dưa thời bình như thời loạn, lúc thạnh như lúc suy…”

Hối lộ còn được gọi qua những từ ngữ khác như mãi lộ, đút lót… là hành vi đưa tiền, hoặc vật phẩm có giá trị, hoặc những thứ khác khiến cho người nhận cảm thấy hài lòng. Từ đó, người nhận hối lộ sẽ giúp đỡ người hối lộ qua hình thức thực hiện các hành vi trái pháp luật, trái lương tâm hoặc làm hại đến người khác.

Đặc điểm chung, người nhận thường là những người có khả năng ảnh hưởng hoặc chi phối đến người khác hay công việc khác. Tiền là thứ phổ biến nhất để hối lộ. Thời phong kiến, người ta còn dùng vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu hoặc của ngon vật lạ để mua chuộc cảm tình của người có chức, có quyền.

Người ta thường nói đến “bổng lộc” của các quan chức. Chữ “bổng” luôn đi kèm chữ “lộc”, một đằng là tiền lương chính thức nhận được và một đằng là lộc “của trời cho”. Theo quan niệm xưa, cái lộc đó đến một cách tự nhiên nhưng những ai đòi lộc về mình tức là đã đòi của hối lộ. 

Trong Chuyện đời xưa, Trương Vĩnh Ký có kể chuyện nhờ đút sáp cho cọp ăn mà khỏi chết. Chuyện được diễn trong tuồng hát bội, anh hề kể lại, “Ý cha chả! Hôm trước tao đi ăn ong về, gặp ông cọp, tưởng đã xong đời rồi… cũng may, tao có vác một bó sáp trên vai, tao mới chàng hảng ra, tao đút sáp ra đằng sau, ổng chạy theo ổng táp, mắc nhai sáp, tao chạy thoát…”.

Câu chuyện chỉ có vậy nhưng quả là thâm thúy. Ăn đàng sau tức ăn dưới trôn. Đi làm một chuyện gì, tỉ như nay ta đi làm áp phe, giả cớ gọi đi… ăn ong. Quan thì gọi ổng nầy ổng kia và muốn cho ổng ăn cứ chàng hảng ra, đút cái ấy dưới háng ổng vẫn táp như thường!

Thời Pháp thuộc, có những viên chức trọn một đời làm công bộc không nhận của hối lộ, đến khi trở về già sống trong cảnh thanh bần mà vẫn vui vì lương tâm thanh thản. Nhưng cũng có những người thấy bạn đồng liêu đã từng nhận tiền “lì xì” nay vợ con đều ấm no, sung sướng, bất giác than thở: “Phải chi mình cũng làm như họ thì giờ đây đã khác!”. 

Đối với những người đã hối tiếc không ăn của hối lộ lúc còn tại chức, Vương Hồng Sển đã đưa ra một nhận xét: “Một lời nói khiến bao nhiêu tiếng thơm trong sạch đều trôi sông trôi biển, vì xã hội có thể tha thứ một con điếm ăn năn, nhưng vẫn không dung một ông quan ưa ăn vụng”.

Tác giả Hơn nửa đời hư kể lại chuyện trước đây, lúc Nam Kỳ còn hội đồng Quản hạt, trong một phiên nhóm đại hội, De la Chevrotière là quan thực dân hạng nặng, công kích hàng phủ, hàng huyện và mấy ông thông phán toà án, rằng họ ăn lương không bao nhiêu mà ông nào cũng có ruộng, có vườn, có nhà lầu, xe hơi, trong khi đó, các quan toà, quan chánh án Pháp về hưu nghèo khổ.

Chevrotière đang ngon trớn thì một viên chức người bản xứ, ông Nguyễn Phan Long, đứng dậy, ông nói chỉ một câu mà quan thực dân phải ngồi xuống vì bẽ mặt: “Xin lỗi, danh từ “pot-de-vin” phải chăng người gô-loa có sẵn? Chớ phải nào của ông cha chúng tôi bày đặt!”.

Người Pháp dùng danh từ “pot-de-vin”, hiểu theo nghĩa đen là hũ rượu nhưng nghĩa bóng là hối lộ vì theo tích xưa, người Pháp có việc dâng rượu nguyên hũ, nguyên vò để mua chuộc lòng người.

Tham nhũng & Hối lộ = Tù tội

Tại Việt Nam dưới thời Pháp thuộc Sở Thuế Thân là nơi “ngon lành” nhất và no đủ nhất: nếu chỉ tính ở một địa phương có 20.000 dân đinh đến tuổi chịu thuế, chỉ cần một nửa số “biết điều”, mỗi đầu người chỉ cần “ăn” 5 cắc là một năm các quan chức có thể kiếm được 50.000 đồng!

Sở Hành Chánh cũng quan trọng không kém và “ăn” cũng không ít. Các ông hương chức muốn được vinh thăng huyện hàm, phú hàm, hoặc muốn tiến cử làm hội đồng tỉnh hay cử làm sung biện, ban biện, phó tổng đều phải đội mâm “có sấp nhiều bộ lư” hoặc “cỡi voi” đến nói chuyện… Lư và voi là giấy bạc một trăm thời Pháp thuộc.

Vương Hồng Sển nói về một ông chánh án người Pháp, tên Bernard, trước kia có vợ Việt còn “ăn” một cách công khai, trắng trợn:

“Ông có sắm một chiếc tam bản cho lính chèo để dành rước từ bên sông mé chợ những ai muốn sang sông qua “nói chuyện” với ngài thì khỏi tốn tiền đò, và ngài nhận lễ tại trong dinh cho thêm phần kín đáo… Ngài mập cho đến mặt bàn phải khoét lỗ chứa cái bụng nước lèo ngài mới với ký tên tới mặt giấy tờ, khi đi tiêu phải dùng khăn bàn lông kéo như kéo đờn cò chớ tay ngài với không tới trôn, và khi lên thang lầu phải có hai tên tuỳ phái đỡ cái bụng phệ nâng lên thì ngài mới bước lên nấc thang được, y như trên sân khấu lúc Đổng Trác bước lên xe loan hay lên ngai rồng…”

Hình ảnh ông chánh Barnard với cái bụng thuộc loại “thùng nước lèo” khiến ta liên tưởng tới một quan chức người Mỹ của hãng Apple ngày nay, ông ấy cũng có “một cái bụng thật tốt”. Đó là Paul Shin Devine, người đã nhận tiền hối lộ lên đến một triệu đô la của các công ty châu Á chuyên cung cấp thiết bị cho Apple.

Chính công ty Apple đã khởi đơn kiện, FBI (Cục điều tra liên bang) và IRS (Sở thuế vụ) đã vào cuộc để phanh phui “người tốt bụng” đã nuốt đến hơn 1 triệu USD và rất nhiều món quà hối lộ có giá trị khác.

“Người tốt bụng” Paul Shin Devine

Cũng vẫn chuyện nước Mỹ nhưng lại có liên quan đến Việt Nam. Michael T. Sestak đã từng là viên chức đứng đầu bộ phận cấp thị thực (visa) tại Lãnh sự quán Mỹ tại Sài Gòn từ tháng 8/2010 tới 9/2012.

Theo hãng AP, đưa tin ngày 5/11/2013, Sestak đã thú nhận một số tiền hối lộ lên đến 3 triệu đô la, gấp 3 lần Paul Shin Devine, dĩ nhiên là tiền đó của người Việt Nam xin visa vào Mỹ. Sestak chỉ mới 42 tuổi và anh chàng này cũng đã đồng ý trả lại tiền thu được do phạm tội, trong đó có tiền bán 9 cơ ngơi đã từng mua ở Thái Lan, và có nguy cơ đối mặt với án phạt tù từ 19-24 năm.

Cựu nhân viên lãnh sự quán này nhận tiền bán visa qua tài khoản của một ngân hàng Trung Quốc, rồi lại chuyển qua tài khoản mà anh ta bí mật mở ở Thái Lan. Sestak bị bắt vào tháng 5/2013 ở nam California.

Trước đó, ba đồng phạm của Sestak là Binh Vo, 39 tuổi, và em gái Hong Vo, 27 tuổi, cùng Truc Tranh Huynh, 29 tuổi, lần lượt bị cảnh sát Mỹ bắt giữ vào tháng 9, tháng 5 và tháng 6. Ngoài ra, các công tố viên còn xác định một nghi phạm khác là Anhdao Thuy Nguyen, hay Alice Nguyen, vợ của Binh Vo, trong đường dây gian lận visa này.

Cũng theo AP, những người Việt xin cấp thị thực vào Mỹ đã phải trả từ 15.000-70.000 USD và theo các nhân viên điều tra, có ít nhất 500 đơn xin visa gian lận đã qua tay Sestak. Từ ngày 1/5 đến ngày 6/9/2012, lãnh sự quán Mỹ tiếp nhận 31.386 hồ sơ xin visa phi di dân và từ chối 35,1%. Trong số đó, Sestak xử lý 5.489 đơn xin visa và chỉ từ chối 8,2%.

Thế mới biết, dân Việt nói chung thì rất nghèo nhưng một thiểu số “đại gia”, cả xanh lẫn đỏ, vẫn thừa đô la xanh để mua đứt Sestak.
 
Cựu nhân viên Lãnh sự quán Mỹ tại Sài Gòn, Michael T. Sestak
(Ảnh Usconsulate.gov)

Người Mỹ dùng từ ngữ “bribery” để chỉ hành động hối lộ. Họ còn dùng tiếng lóng “kickback” để chỉ “tiền hoa hồng”, nói theo kiểu miền Bắc là “tiền lại quả”, hay nói chung là tiền hối lộ qua hình thức “under the table” trong cuộc thương lượng ngầm.

Câu thuyện “thương lượng ngầm” tai tiếng nhất giữa Úc và Việt Nam xảy ra năm 2002 khi Việt Nam chuyển qua dùng tiền in trên nhựa polymer thay vì trên giấy thường. Securency, một công ty Úc, trong đó Ngân hàng Trung ương Úc nắm 50% cổ phần, đã giành được hợp đồng in tiền béo bở này.

Thế nhưng gần đây, nhật báo Úc The Age đã tiết lộ rằng công ty Úc đã dành được hợp đồng nói trên nhờ tung ra hàng triệu đô la để hối lộ tại Việt Nam có dính líu đến quan chức nhà nước của cả hai bên. The Age nêu rõ tính danh một doanh nhân Việt Nam là trung tâm điểm của vụ tham nhũng lên đến hơn 12 triệu đô la Úc, tương đương với gần 11 triệu đô la Mỹ. Nhân vật này là ông Lương Ngọc Anh, Tổng giám đốc Công ty Phát triển Công nghệ CFTD ở Hà Nội.

Theo nhật báo Úc, trong thời gian qua, công ty Securency đã chuyển cho ông Lương Ngọc Anh và công ty của ông số tiền bạc triệu kể trên, bản thân ông Anh nhận được hơn 5 triệu đô la. Một phần trong các món tiền này, gọi là ''tiền hoa hồng'' (commissions) đã được chuyển vào các tài khoản ở ngoại quốc, đặc biệt là ở Thụy Sĩ.

Vấn đề chính là luật pháp chống hối lộ hiện hành tại Úc nghiêm cấm việc trả tiền cho các quan chức chính quyền hay các công ty do chính phủ ngoại quốc kiểm soát để giành lợi thế trong công việc kinh doanh. Nếu cuộc điều tra do Cảnh sát Liên bang Úc đang tiến hành xác định là các lãnh đạo điều hành công ty Securency biết rõ là ông Lương Ngọc Anh làm việc cho chính phủ Việt Nam, thì họ có thể bị kết án đến 10 năm tù.

Về phiá Việt Nam, nhật báo Úc The Age đã từng tiết lộ cho rằng sở dĩ Securency thắng được hợp đồng in tiền polymer cho Việt Nam đó là nhờ thuê được một “công ty  trung gian môi giới”, nơi có con trai của cựu thống đốc Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam Lê Đức Thúy làm việc. Việt Nam đã chọn tiền Polymer vào lúc ông Thúy tại chức.

Ngay từ năm 2007, khi vụ hối lộ này bắt đầu thu hút sự chú ý của dư luận, Công ty Securency từng khẳng định là chỉ thuê công ty Công ty Phát triển Công nghệ CFTD ở Hà Nội làm “một số công việc biên dịch và phiên dịch, cũng như giúp liên lạc với Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam'”.

Câu hỏi đặt ra là nếu danh chính ngôn thuận như thế thì tại sao số tiền thù lao cho ông Lương Ngọc Anh và Công Ty CFTD ở Hà Nội lại cao đến thế, và nhất là lại được chuyển vào các tài khoản ở ngoài Việt Nam. Theo báo The Age, cả Công ty Securency lẫn Ngân Hàng Trung ương Úc đều từ chối giải thích.

Ngoài Lương Ngọc Anh, một số quan chức Úc có liên quan đến vụ in tiền polymer gồm bà E. Masamune (viên chức cao cấp Austrade), David Twine (Giám đốc Ðông Nam Á của Austrade), Vipin Khanma (tay lái súng ở Ấn Ðộ), và Cliff Gerathy (Giám đốc Điều hành Securency).


Hình minh họa vụ Securency trên báo The Age

Gần đây nhất, nhân vật đã khiến báo chí trong và ngoài nước tốn không ít giấy mực là Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục hàng hải Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), Ủy viên Thường vụ Đảng ủy khối doanh nghiệp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đại biểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam XI toàn quốc.

Trong phiên xử sơ thẩm ngày 16/12/2013 Dương Chí Dũng bị tuyên án tử hình về tội tham ô, 28 năm tù về tội “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Vụ xử này được báo chí quốc tế nhiều hãng thông tấn, báo chí lớn của nước ngoài đều đưa tin và nhận định bản án tử hình dành cho ông này là một nỗ lực của Việt Nam trong cuộc chiến chống tham nhũng.

Dương Chí Dũng là con trai của ông Dương Khắc Thụ, nguyên Đại tá Giám đốc Công an Thành phố Hải Phòng trong thập niên 1970-1980. Các anh em của Dương Chí Dũng đều công tác tại Công an Thành phố Hải phòng. Em trai là Đại tá Dương Tự Trọng từng giữ chức vụ Phó Giám đốc CA Hải Phòng, sau đó được thăng cấp lên Cục phó Cục Cảnh sát Quản lí Hành chính về trật tự xã hội và em rể, Nguyễn Bỉnh Kiên, nguyên Phó Giám đốc Công an TP Hải Phòng, em gái là Băng Tâm cũng thuộc Công an PC 25 Hải Phòng.

Trước khi làm lãnh đạo Vinalines, Dương Chí Dũng đã từng quản lý Tổng Công ty Xây dựng Đường thủy (Vinawaco), một đơn vị bị thua lỗ nặng. Ông Dũng được bổ nhiệm chức Tổng giám đốc Vinalines từ tháng 8/2005 đến tháng 7/2011, ông còn được bổ nhiệm giữ chức Chủ tịch Hội đồng quản trị tổng công ty này.

Cục Cảnh sát phòng chống tham nhũng đã phát hiện những sai phạm trong việc thực hiện lắp đặt ụ nổi thuộc dự án nhà máy sửa chữa tàu biển Vinalines phía nam. Tháng 2/2012, Cơ quan cảnh sát điều tra quyết định khởi tố bắt tạm giam 4 bị can có liên quan đến hành vi tham ô tài sản. Trong số này có Trần Hải Sơn - Tổng giám đốc Công ty TNHH sửa chữa tàu biển Vinalines.

Theo đó, các bị can này đã có dấu hiệu nâng giá vật tư, quyết toán khống trong việc sửa chữa ụ nổi để chiếm đoạt số tiền trên 2,5 tỉ đồng. Trong quá trình điều tra, Cục Cảnh sát phòng chống tham nhũng đã phát hiện có nhiều dấu hiệu sai phạm trong việc đầu tư dự án nói chung và mua sắm ụ nổi nói riêng.

Theo điều tra của Cục Cảnh sát phòng chống tham nhũng, khi chưa được Thủ tướng phê duyệt thì ngày 27/6/2007, Chủ tịch HĐQT Vinalines đã ký quyết định phê duyệt dự án nhà máy sửa chữa tàu biển tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu với tổng mức đầu tư 3.854 tỉ đồng. Tuy nhiên, dự án này sau đó đã bị đội lên thành 6.489 tỉ đồng.

Tương tự, việc mua sắm ụ nổi cũng đã bị đội giá lên gấp đôi so với dự toán ban đầu. Vinalines đã tự ý quyết định đầu tư khi chưa được Bộ Giao thông Vận tải cập nhật dự án vào quy hoạch và dự án này cũng chưa trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.

Ngày 18/5/2012, sau khi ra quyết định khởi tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã làm việc với Bộ Giao thông Vận tải, ngay sau đó Bộ này đã có quyết định đình chỉ công tác với Dương Chí Dũng. Ngày 19/5/2012, Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định truy nã đối với ông Dương Chí Dũng khi đương sự bỏ trốn khỏi Việt Nam.

Theo nhận định của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an “đây là vụ án gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng cho nhà nước, có tính chất phức tạp, gây nhức nhối trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng đến uy tín của chính phủ Việt Nam”.

Dương Chí Dũng (giữa) và 9 đồng phạm trong vụ đại án tham nhũng ở Vinalines
(Ảnh TTXVN)

Các hình thức đưa và nhận hối lộ truyền thống ngày nay còn có những biến tướng khó lường. Người ta muốn nói đến hình thức hối lộ “phi vật chất”, chẳng hạn như “hối lộ tình dục”, người đưa hối lộ bằng cách phục vụ tình dục để mong đạt được lợi ích. Một cô gái trẻ thích hào quang của thế giới showbiz chọn con đường sẵn sàng hiến dâng thân xác cho một ông bầu show tên tuổi để đạt được “tham vọng”.

Người ta cũng có thể hối lộ bằng cách cung cấp thông tin cho “sếp” để mưu cầu lợi ích cá nhân, người nhận hối lộ cũng nhận được lợi ích từ thông tin được cung cấp, chẳng hạn như tiết lộ bí mật thương mại trong cạnh tranh, thông tin “mật” về các vụ án hoặc các tin tức về thăng quan tiến chức, thuyên chuyển hoặc “giảm biên chế”…

Còn có một hình thức khác, tạm gọi là “hối lộ thành tích” giữa cấp trên và cấp dưới trong cùng hệ thống, cùng ngành. Người đưa hối lộ cố ý chuyển thành tích công việc của mình cho cấp trên hưởng lợi hoặc có trường hợp cấp trên muốn được thăng chức cao hơn nên cố ý chiếm thành tích của nhân viên. Thường thì khi được thăng chức cao hơn, cấp trên sẽ điều động cấp dưới lên vị trí cao hơn, có lợi hơn, và như vậy việc tham nhũng-hối lộ được dựa trên nguyên tắc… hai bên cùng có lợi.

Những dịp đặc biệt như ngày Tết, trung thu, sinh nhật, cưới hỏi cũng là cơ hội tốt để hối lộ một cách… công khai. Quà cáp tặng trong dịp này thường là những món “trên mức bình thường” nhằm mục đích hối lộ. Việc trao đổi này thực sự mang lại lợi ích lớn đối với cả hai phía cho & nhận và cái mà cả hai mất là không đáng kể so với những gì họ cho hoặc nhận.

Chẳng hạn người hối lộ bỏ ra 10 triệu để có thể được ưu tiên khai thác khu đất tốt, sinh lời đến 100 triệu, trong khi người nhận hối lộ “chẳng mất gì”, hay đúng ra họ tự hiểu khi nhận 10 triệu mình sẽ “chiếu cố” người đưa hối lộ và như vậy cái mà họ mất đi chính là danh dự, uy tín, đạo đức của chính mình.

Mặt khác, hành vi trao đổi “lợi ích” giữa hai người đã ảnh hưởng đến lợi ích chung của cả xã hội. Hành động hối lộ này rõ ràng là “gian lận” vì lợi dụng “mối quan hệ ràng buộc” đã cướp lấy cơ hội đáng lẽ ra của người khác.

Phong bì hối lộ

Từ bao đời nay, người Việt có truyền thống tặng quà tết như rượu chè, bánh trái để bày tỏ mối thân tình vì thực lòng quý mến nhau. Giá trị vật chất của những món quà này chẳng đáng là bao nhưng cái giá trị tinh thần mới là điều quan trọng. Nhìn qua khía cạnh đạo đức, đây là một hình thức biểu thị tình cảm giữa người cho và kẻ nhận.

Tuy nhiên, khi nhận một bao gạo thơm đầu mùa của gia đình đứa học trò nhà giàu đem biếu thì thầy giáo phải chăng đã nhận của lễ trá hình? Khi bác sĩ nhận một chục hột gà của thân nhân bệnh nhân đem biếu ta có gọi đó là “đút lót” hay không? Ranh giới giữa quà biếu và quà hối lộ thật mong manh khiến người nhận luôn cảm thấy lương tâm áy náy.

Thời nay lại khác, quà tết lại là phong bì, thậm chí là cả một số tiền lớn chuyển vào tài khoản. Hành động lách luật này vô hình dung có điều kiện để tồn tại công khai, và ảnh hưởng xấu của nó lại được che giấu đi khiến lợi ích của xã hội bị tổn hại.

Hành vi tặng quà tết nhằm mục đích hối lộ vẫn xảy ra ngày càng mạnh mẽ hơn đang gây tổn hại lớn hơn. Có khi nó còn là hành động “ăn cắp” một cách trắng trợn qua việc mua chuộc và tham ô tiền bạc và tài sản của người khác.

Một nghiên cứu cho thấy số người sử dụng phong bì trong dịch vụ y tế tăng gấp đôi trong vòng ba năm, từ 13% (năm 2007) lên đến 29% (năm 2010). Năm 2012, kết quả cuộc khảo sát được công bố bởi Ngân hàng Thế giới và Thanh tra Chính phủ của Việt Nam (được thực hiện bởi Cục Chống tham nhũng) cho thấy 76% những người đút phong bì là tự nguyện và 21% là do được gợi ý.

Phong bì & Bệnh viện

Tại Việt Nam, việc cấm tặng quà cấp trên không phải là điều mới lạ nhưng việc kiểm soát không nghiêm nên vẫn tiếp diễn, thậm chí có khả năng tăng dần trong mấy năm qua, nhất là vào các dịp đặc biệt như lễ tết...

Nhiều người thắc mắc, từ trước đến nay chỉ cấm có một “vế”, tức là cấm người biếu, còn vế thứ hai không cấm, đó là người nhận. Có người lại thắc mắc, “Cấm tặng quà cho sếp chứ đâu có cấm tặng vợ và người thân của sếp?”.

Nhìn chung, tham nhũng và hối lộ là một hoạt động được thực hiện như một “giao dịch ngầm” giữa người cho và kẻ nhận. Mà đã là “kín đáo” thì làm sao con mắt của pháp luật có thể soi mói được, trừ khi bị phanh phui, điều tra…

Một cái bắt tay… bằng đống Euro

Trên tờ Tiền Phong, Đại bểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị, Lê Như Tiến, cũng cho rằng, bây giờ quà trở thành giá trị vật chất lớn. Có người ngày Tết tặng quà nhau mấy chục ngàn đô la Mỹ, tặng chai rượu ba bốn mươi năm, trị giá hàng chục triệu đồng hoặc quà vật chất trị giá hàng trăm triệu đồng.

Ông lý giải: “Quà chỉ còn mang ý nghĩa vật chất, sự trả ơn cho những thứ anh đã cho tôi như đã thăng chức, đã tạo điều kiện cho tôi làm ăn. Đấy là sự trả ơn mang tính chất vụ lợi, là một loại lợi ích nhóm”.

Một quan chức cấp cao trong chính phủ nói, “Riêng vấn đề nhận quà trong dịp lễ Tết, tôi nghĩ không còn cách nào khác là bản thân lãnh đạo phải tự cảnh giác, nghiêm túc thực hiện quy định cấm từ cấp cao xuống các địa phương. Bên cạnh đó cần phát huy hơn nữa sự giám sát của nhân dân, cơ quan cũng cần tăng cường kiểm soát cán bộ”.

Nói thì rất dễ nhưng làm thế nào để biến những lời nói thành hành động cụ thể quả là một vấn đề nhức nhối từ ngàn xưa để lại.

Không đi chúc Tết người ta
Người ta tự ái khó mà an thân!

***

Chú thích:

[*] Đọc thêm về tác giả Vương Hồng Sển qua bài viết “Cà phê Sài Gòn Xưa & Nay” tại

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 10: Thời xuống lỗ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)

Tác giả đang viết tiếp Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
--> Read more..

Popular posts