Thứ Năm, 27 tháng 12, 2018

Hậu X’mas 2018

Đã qua rồi cái thời của O. Henry, “ông vua” truyện ngắn của văn học Hoa Kỳ. O. Henry phác họa tình cảm của con người hồi đầu thế kỷ 20 qua hai nhân vật trẻ, James và Della, trong “The Gift of the Magi”.

Họ là một cặp vợ chồng trẻ nghèo túng nhưng tình yêu dành cho nhau chắc các tỷ phú không thể nào giàu hơn. Della đếm từng xu tiết kiệm suốt một năm trời để mua cho James một món quà Giáng sinh mà cô hằng ao ước. James cũng sẵn sàng bán chiếc đồng hồ bỏ túi để mua cho vợ một bộ lược cho xứng đáng với mái tóc óng ả của nàng.


Della đã tiết kiệm cả năm trời nhưng đếm đi đếm lại, cô chỉ có 1 đô-la và 87 xu 

Hai món quà giáng sinh được trao cho nhau trong một hoàn cảnh éo le mà chắc chỉ O. Henry mới có thể đưa vào truyện và khiến người đọc ngỡ ngàng. Della bán mái tóc cho một tiệm làm tóc giả để mua cho James sợi dây đeo đồng hồ bỏ túi. James lại bán đồng hồ để mua cho Della một bộ lược chải tóc.

Chỉ sau vài phút ngỡ ngàng họ đã nhận ra được tình cảm thắm thiết dành cho nhau dù phải hy sinh vật chất phù du. Tác giả “The Gift of the Magi”, tạm dịch là “Món quà của nhà thông thái”, viết lời kết cho câu chuyện:

“Tôi đã vụng về kể cho bạn nghe một câu chuyện không có hậu về hai cô cậu khờ dại trong một căn hộ nghèo nàn, đã hy sinh những tài sản quý giá của mình một cách không khôn ngoan chút nào. Nhưng, lời cuối cùng để nói với những người khôn ngoan thời buổi này là trong những người tặng quà, hai người này là khôn ngoan nhất. Và tất cả những ai trao quà theo cách của họ, kể cả người cho và người nhận, ở bất cứ nơi đâu, đều là khôn ngoan nhất. Họ chính là những nhà thông thái thật sự”.



“The Gift of the Magi”, O. Henry

Vào thời đại văn minh kỹ thuật số của thế kỷ 21 làm gì còn có những chuyện như của O. Henry. Tùy theo túi tiền, phần đông người ta chỉ tặng nhau những món quà Giáng sinh phù phiếm, hoàn toàn không mang một ý tưởng sâu sắc của quà tặng. Quà Giáng sinh nhiều khi chỉ được coi là một hình thức chứ không mang ý nghĩa sự quan tâm của người tặng.

Thường thì người tặng quà không để ý đến sở thích của người nhận quà. Họ chỉ mua quà theo ý thích của mình mà không nghĩ đến việc món quà có làm vừa ý người nhận hay không. Thế cho nên, một con robot “hiện đại”, đắt tiền lại không quý đối với một bé gái chỉ thích một con búp bê bằng vải để chăm sóc hằng ngày. Giá tế nhị một chút, họ sẽ mua một con búp bê rẻ hơn một người máy, không phải vì giá cả mà đó chính là sự cảm thông sâu sắc.

Người vợ vốn thích công việc nội trợ sẽ cảm động với những món quà có liên quan đến việc bếp núc hơn là nhận được những bó hoa chỉ đẹp mà với những người lãng mạn, chỉ ngắm được vài ngày rồi cũng kết thúc trong thùng rác. Vấn đề đặt ra không phải là “cách cho quà” mà là “mối quan tâm khi cho quà”!


Tặng quà Giáng sinh không phải chỉ cần tiền là đủ 

Có một câu chuyện “lạ lùng” về cách tặng quà Giáng sinh tại Kansas City, thuộc tiểu bang Missouri. Thành phố này có một nhà hảo tâm mà người dân tại đây gọi ông là “Ông Già Noel Bí Mật” (Secret Santa). Một cư dân Kansas City tên Jen Behrend kể về ông:

“Ông Già Noel Bí Mật” của Kansas đã có năm ông ấy đến trạm xăng QuikTrip và trả tiền xăng cho mọi xe đến đây hoặc khiến mọi người tại trạm xăng phải ngạc nhiên khi tặng mỗi người tờ 100 đô-la. Ông ấy dấu tên nhưng tôi hy vọng ông ấy biết là những người sống ở Kansas City đều ái mộ ông vì tấm lòng hảo tâm”.

Năm 2014 “Ông Già Noel Bí Mật” đã thay đổi cách tặng quà. Thay vì tự tay đưa những tờ 100 đô-la, ông nhờ Cảnh sát quận Jackson làm việc từ thiện đó. Nhiệm vụ của họ là chạy trên xa lộ, tìm những chiếc xe xấu xí nhất như bị móp méo, sơn xe bị trầy sước hoặc kính bị nứt bể…

Cảnh sát chặn những chiếc xe cà tàng này không phải vì vi phạm luật giao thông. Thay vào đó, họ mở đầu với lời chúc “Merry Chirstmas” và tặng chủ xe mỗi người một tờ 100 đô-la làm quà Giáng Sinh!

“Ông Già Noel Bí Mật” và cảnh sát quận Jackson 

Đầu tiên, phản ứng của tài xế khi bị cảnh sát đuổi theo chặn xe là tâm trạng vừa lo, vừa sợ… không biết tại sao xe mình lại bị chặn trên đường. Chỉ đến khi cảnh sát bắt đầu bằng lời chúc “Merry Chirstmas” và đưa ra tờ tiền 100 đô-la họ mới thay đổi thái độ, từ căng thẳng đổi sang vui mừng!

Trên xe nếu có hai người, cảnh sát còn “hào phóng” tặng luôn hai tờ 100 đô-la mừng Lễ Giáng sinh. Tặng tiền xong, cảnh sát vội vã lên xe… không nói nhiều lời. Quả đúng là… “phước bất trùng lai, họa vô đơn chí”!

Hai bố con nhận được 200 đô từ cảnh sát! 

Đó cũng là một cách trao quà độc đáo cùa “Ông Già Noel Bí Mật” cho những người nghèo ờ Kansas City ngay trên xa lộ với sự hỗ trợ của cánh sát. Cảnh sát còn vào các siêu thị có đông người nghèo đi mua sắm, họ chọn những người có vẻ rách rưới nhất và bất ngờ trặng tiền để mua sắm Giáng sinh. 

Niềm vui bất ngờ của người nghèo khi nhận tiền tại siêu thị 

Chuyện tặng tiền mới nghe có vẻ “thần thoại, hoang đường” nhưng đài truyền hình CBS, ngày 12/12/2014, đã có một phóng sự về chuyện này trên trang Facebook của họ. Các bạn có thể vào đường link https://www.facebook.com/CBSEveningNews/videos/10153003404704073/.

Video clip này hiện đã có 718,000 lượt người Like, 57.000 lời bình luận và 3,141,863 người Share. Số người vào xem đã lên đến một con số kỷ lục: 135.309.758 lượt!

Hình chụp bản tin buổi tối của đài CBS, ngày 12/12/2014 

Chúng tôi xin kết thúc chuyện “Hậu X’mas 2018” chỉ với một lời bình luận ngắn gọn:

Không biết đến bao giờ Việt Nam ta mới có được chuyện thần thoại như ở Hoa Kỳ. Chúng ta cũng có các nhà hảo tâm, họ sẵn sàng chia sẻ với người nghèo khó. Tuy nhiên, làm từ thiện như “Ông Già Noel Bí Mật” với sự giúp sức của cảnh sát giao thông thì chắc phải đợi đến khi nào lực lượng cảnh sát của ta bỏ hẳn ý tưởng về… “bánh mì”!

Mong lắm thay!

*** 

* Tham khảo thên bài viết “Quà Giáng sinh” tại:
https://chinhhoiuc.blogspot.com/2017/12/qua-giang-sinh.html


***
--> Read more..

Thứ Hai, 17 tháng 12, 2018

Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh: Nghiệp Bay, Nghiệp Văn và Nghiệp Giáo


“Những người Việt ở thế hệ của tôi đã trải qua nhiều biến chuyển của đất nước nên ai cũng có nhiều thay đổi trong đời sống. Với tôi, lúc nào tôi cũng nghĩ mình xuất thân là một quân nhân trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa vì tôi đã có mười bốn năm trong quân ngũ….

“Với những người ngoại quốc mà tôi thường tiếp xúc ở khắp năm châu, họ biết đến tôi là một giáo sư môn khoa học hàng không và không gian tại đại học Michigan. Đó cũng là chức vụ vĩnh viễn khi tôi được đại học này phong tặng khi mãn nhiệm giáo dục vào năm 1999.”

Đại tá Nguyễn Xuân Vinh

***

“Trong nền văn học thế giới, kể cả Việt Nam, có những tác phẩm mà người đọc, sau khi bỏ sách xuống đã bâng khuâng tự hỏi phải chăng đây là việc thật xảy ra với những người thật. Đọc Les Miserables của Victor Hugo người ta như sống với những nhân vật trong truyện. Trong những tác phẩm thật chọn lọc của Tự Lực Văn Đoàn, khi đọc Hồn Bướm Mơ Tiên của Khái Hưng ta cũng có thể nghĩ chú tiểu Lan là mẫu người có thực.

“Theo tôi nghĩ thì nhà văn khi tạo dựng một tác phẩm, nếu tả đúng tâm lý của những nhân vật trong truyện và trong một khung cảnh hiện thực thì đó là bí quyết để thành công khi viết sách để cho người đọc như đang theo dõi một câu chuyện đời có thực. Trường hợp tôi viết “Đời phi công” cũng như vậy, tôi cố tạo ra những hình ảnh đẹp là mẫu mực của thanh niên ở thế hệ tôi. Nhiều thanh niên học sinh đọc sách đã thầm ước mình là người trong truyện.”

Nhà văn Toàn Phong

***

Hai trích dẫn ở trên đều là phát ngôn từ một người: Đại tá Nguyễn Xuân Vinh và nhà văn Toàn Phong (1).

Sự nghiệp trong quân đội của ông chỉ kéo dài 14 năm, năm 1951 ông nhập ngũ khóa 1 Sĩ quan Trừ bị Nam Định và ra trường với cấp bậc chuẩn úy. Cuối năm 1951, ông chuyển sang Không quân và đi du học tại Học viện Không quân ở Salon-de-Provence, Pháp. Đầu năm 1954, ông tốt nghiệp với bằng phi công 2 động cơ cùng với “thẻ trắng” (carte blanche) để bay trong sương mù theo đúng tiêu chuẩn của Không Quân Pháp.

Suốt 14 năm trong quân ngũ, ông đã từng giữ chức vụ Tham mưu trưởng Không quân (1957) với cấp bậc Trung tá và sau đó là Tư lệnh Không quân với cấp bậc Đại tá năm 1958. Khi hai sĩ quan phi công là Phạm Phú Quốc và Nguyễn văn Cử điều khiển 2 chiếc khu trục cơ thả bom Dinh Độc lập năm 1962, ông bị liên đới trách nhiệm. Hậu quả là Tổng thống Ngô Đình Diệm cách chức Tư lệnh Không quân của ông.


Đối với một quân nhân bình thường, 14 năm trong quân ngũ và giải ngũ với cấp bậc đại tá quả là một câu chuyện đáng để hãnh diện. Tuy nhiên, đối với ông Nguyễn Xuân Vinh, đó chỉ là giai đoạn đầu của một cuộc đời hoạt động không ngừng nghỉ.

Ông đã chuyển từ binh nghiệp sang sự nghiệp khoa học khi bước vào tuổi 32 tại Hoa Kỳ với những thành tích mang tầm vóc quốc tế. Năm 1965, ông là người đầu tiên được cấp bằng Tiến sĩ về Khoa học Không gian tại Đại học Colorado. Ba năm sau, ông được làm Giảng sư (Associate Professor) tại Đại học Michigan. Năm 1972, ông được phong Giáo sư (Professor) tại Viện Đại học Michigan. Cũng trong năm này ông lấy tiếp bằng Tiến sĩ Quốc gia toán học tại Đại học Sorbonne, Paris, Pháp.

Duyệt toán dàn chào danh dự tại March AFB, California (1960)

Năm 1982, ông là Giáo sư (Chair Professor) của ngành Toán ứng dụng tại Đại học Quốc gia Thanh Hoa (National Tsing Hua University), Đài Loan. Hai năm sau, Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh là người Hoa Kỳ thứ ba (và cũng là người Châu Á đầu tiên) được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc gia Hàng không và Không gian Pháp (Académie Nationale de l'Air et de l'Espace). Đến năm 1986, ông trở thành Viện sĩ chính thức của Viện Hàn lâm Không gian Quốc tế (International Academy of Astronautics).

Yết kiến Tổng thống Tưởng Giới Thạch tại Đài Loan (1961)

Năm 1999, ông nghỉ hưu và được Hội đồng Quản trị (Board of Regents) tại Đại học Michigan phong tặng chức Giáo sư Danh dự ngành Kỹ thuật Không gian (Professor Emeritus of Aerospace Engineering) vì công lao đóng góp cho khoa học và giáo dục. Quả là một sự nghiệp lẫy lừng cả về binh nghiệp lẫn giáo dục của một con người “đa năng, đa hiệu”.

Tiếp đón Phó Tổng Thống Lyndon B. Johnson tại Việt Nam (1961)

Tôi có một bà cô họ, bút danh Hương Kiều Loan, đã có bài phỏng vấn giáo sư Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh, đăng trên báo Hồn Quê tại Hoa Kỳ, tháng 12 năm 2001. Theo tôi, bài phỏng vấn này sẽ giúp người đọc hiểu rõ hơn về ông. Bài “Phỏng vấn Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh” của Hương Kiều Loan (HKL) mở đầu bằng câu hỏi:

“Mới đây HKL được coi một CD Rom nói về giáo sư của Hội Khuyến Học ở Saint Louis trong đó có nói là giáo sư mang nặng ba nghiệp dĩ là Nghiệp Bay, Nghiệp Văn và Nghiệp Giáo. Vậy HKL xin bắt đầu hỏi là vì sao mà giáo sư lại chọn vào Không quân để vương lấy nghiệp bay?”   

Ông cho biết mình thuộc lớp sinh viên đại học, được gọi động viên năm 1951 để theo học Khoá I, những Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định và Thủ Đức. Lúc đó ông đã học phần đầu của văn bằng cử nhân toán học và ước nguyện của ông là trở thành một nhà toán học vì Việt Nam có rất ít người trong ngành này. Lúc sắp ra trường ở Thủ Đức và biết là sẽ phải ở trong quân đội một thời gian vô định nên ông xin thi kỳ tuyển sinh viên theo học Trường Sĩ Quan Không Quân ở Salon de Provence bên Pháp để có dịp ra nước ngoài học hỏi thêm.

Trong suốt 3 năm ở Pháp và Maroc (1952-1955) ngoài việc được đào tạo như một phi công, ông đã hoàn tất chương trình cử nhân toán ở Đại học Marseille và cũng có thêm văn bằng cao học để chuẩn bị thi tiến sĩ toán học. Ông giải thích:

“Như tất cả những người cùng lứa tuổi, chúng tôi lớn lên ở trong thời loạn và sự học luôn luôn bị gián đoạn, không thể nào xếp đặt chương trình theo như ý của mình. Khi tôi thi xong chứng chỉ cao học về Hình học Cao cấp ở Đại Học Marseille là nơi gần Trường Không Quân ở Salon de Provence thì tôi được gửi đi Avord, thuộc hạt Cher, để hoàn tất phần phi huấn. Nơi đây chỉ cách Paris có hai giờ đi xe lửa nên tôi xin chuyển hồ sơ về Đại Học Paris để ghi danh học chương trình Tiến sĩ Quốc gia Toán học. Lúc đó là vào năm 1954. Năm sau đó tôi học xong chương trình sĩ quan phi công và phải trở về Việt Nam để phục vụ trong quân đội quốc gia. Phải đợi cho đến năm 1972 tôi mới có dịp trở lại Đại Học Paris để nộp luận án tiến sĩ quốc gia về môn toán học”.  

Thăm Bộ Tư lệnh Không quân Hoa Kỳ Thái Bình Dương ở Honolulu (1962)

Khi HKL hỏi về “nghiệp văn” với tác phẩm “Đời phi công” (2) đã một thời làm say mê những người trẻ, cả trai lẫn gái… nhà văn Toàn Phong tâm sự:

“Đời phi công” là một tuyển tập những bức thư của một phi công viết cho một thiếu nữ còn đang là sinh viên ở đại học để kể cho nàng nghe cuộc đời của những người hàng ngày bay trên gió mây trời. Tôi bắt đầu viết vào năm 1959 và đăng mỗi tuần một kỳ, vào ngày thứ Hai, trên báo Tự Do là một nhật báo có nhiều độc giả trên toàn quốc. GS Văn Khoa Phạm Việt Tuyền là chủ nhiệm.

“Giới trẻ thời đó hay đón đọc vì ai có một chút mơ mộng cũng có thể tưởng tượng được rằng nếu sau này trở thành phi công thì mình cũng có thể là người viết những bức thư tâm tình đầy thi vị như thế này.

(hết trích)

Tác phẩm “Đời phi công”

“Đời phi công” nhận được Giải thưởng Văn chương Toàn quốc năm 1961. Vào đầu thập niên 60, đó là hiện tượng đặc biệt trong văn học khi một nhà văn trẻ như Toàn Phong được giải thưởng văn chương bên cạnh những nhà văn đàn anh đã thành danh từ nhiều năm trước như Vũ Khắc Khoan và Võ Phiến.

Ngôn ngữ trong “Đời phi công” là một thứ ngôn ngữ gợi hình một cách lãng mạn. Ánh mắt của cô Phượng “trông như ánh pha-lê”, hành trình của người con trai thời chiến như “một chiếc lá vàng đã trót được thả trên giòng đời”, phi công được thi vị hóa như những “tráng sĩ” hay “hiệp sĩ không trung”…

Tác giả còn gọi những bức thư cho người yêu là “giòng lá thắm”. Ngay ở Chương đầu mang tên “Đường đời muôn vạn nẻo”, người trai thời loạn trong “giòng lá thắm” đầu tiên đã viết:

“Phượng,

“Viết thư này anh đã ở xa em muôn vạn trùng dương. Anh mỉm cười khi đặt bút vì nghĩ rằng em vẫn thường chê cái tính thích giang hồ vặt của anh. Lần này thì anh đi hẳn, đi thật xa cho đến khi nào công thành anh mới trở về.

“Anh rời Sàigòn một sáng tinh sương, trời còn hơi mờ mờ tối. Vào dạo này Sài thành hay mưa, nước đêm hôm trước còn đọng từng vũng trên đường. Chiếc xe ca chở anh tới Tân Sơn Nhất chạy quanh co qua những phố vắng. Thỉnh thoảng một chiếc xích lô máy kêu ầm ĩ chạy ngược lại, hai ngọn đèn pha yếu ớt ánh vàng như những cặp mắt ngái ngủ, sau một đêm thức nhiều mệt nhọc. Tuy vậy tâm hồn anh thấy vô cùng sảng khoái, anh không thấy náo nức hớn hở như những khi sắp được đi xa của một thời thơ dại vì những ngày qua đã làm anh trở nên trầm tĩnh hơn.

“Bốn chiếc động cơ mở hết tốc lực của chiếc phi cơ cất cánh đã làm anh trong giây phút luyến tiếc quê hương, nhớ đến những người thân tình. Anh thấy nhớ Sàigòn quá, nhớ hơn cả Hà Nội. Có lẽ tại Sàigòn đã cho anh nếm hết tất cả mùi vị cay đắng của cuộc đời. Rồi anh nghĩ đến em, đến Hà Nội. Lúc này chắc em đã bắt đầu sửa soạn đi học.

(hết trích)

Cất cánh từ Sài Gòn, máy bay lần lượt ghé các thành phố Calcutta, Karachi, Beirut, La Mã và cuối cùng hạ cánh ở Ba Lê. Toàn Phong viết cho Phượng:

“Anh tới kinh thành ánh sáng một buổi chiều mùa thu lá vàng rơi đầy đường sau khi đã lênh đênh trên mây trời hơn 30 tiếng đồng hồ. Chắc em không thể tưởng tượng được rằng rồi đây cuộc đời của anh sẽ lênh đênh như thế mãi.

“Lúc anh bước chân xuống Karachi để máy bay lấy xăng, người phi công thuyền trưởng lại gần anh xin lửa châm thuốc hút có hỏi:
 -- Tôi xem phiếu lý lịch hành khách thấy đề tên ông sang Pháp học lái máy bay?

“Anh gật đầu, người ấy nói tiếp:
-- Rồi ông sẽ thấy bay là một cái nghiệp. Mắc vào rồi nó sẽ vướng lấy mãi.

“Câu nói ấy làm anh trầm ngâm suy nghĩ. Máy bay cất cánh ở Karachi vào 9 giờ đêm để tới Beyrouth vào mờ sáng. Anh ngồi trong ghế dựa lắng nghe phi cơ từ từ lên cao chìm trong đêm tối. Qua khung kính bên cạnh muôn vàn vì sao lấp lánh làm anh có cảm tưởng rằng mình đang tan dần trong vũ trụ mờ ảo.

(hết trích)

Nhà văn Hương Kiều Loan (Hình chụp tại Đà Lạt, 1965)

Ông anh lớn của tôi cũng là một trong những thanh niên “bị mê hoặc” vì tác phẩm “Đời phi công” (3). Học hết tú tài anh gia nhập Không quân chứ không muốn là sinh viên trên giảng đường. Chỉ tiếc một điều, ngày đó thi tuyển vào ngành phi hành rất nghiêm ngặt, anh tuy cao lớn như một lực sĩ, sức khỏe có thừa nhưng lại trượt khi khám mắt nên đành phải theo ngành “không phi hành”. Quanh năm suốt tháng chỉ quanh quẩn ở phi trường bên những chiếc máy radar theo dõi bạn bè “tung mây lướt gió” qua… màn ảnh nhỏ!

Đến lứa chúng tôi, nhiều bạn học đã vào Không quân từ cuối thập niên 60. Bạn chọn nghiệp bay sớm nhất lái Skyraider, kế tiếp có người lái C-47, A-37 sau này, khi chiến tranh leo thang, đa số lái trực thăng.

“Đời phi công” và Cô Phượng

Phi công vốn nổi tiếng “hào hoa” nhưng tôi nghĩ “Đời phi công” của nhà văn Toàn Phong, không ít thì nhiều, có những tác động đến lý tưởng của thế hệ trẻ thời đó. Thế cho nên, Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh đã từng là “thần tượng” của lớp thanh niên thời chiến.

Cuộc đời của ông gắn liền với 3 cái “nghiệp”: Nghiệp Bay, Nghiệp Văn và Nghiệp Giáo. Điều quan trọng hơn cả là “nghiệp” nào cũng bay cao, bay xa và bay mãi trong lòng người hâm mộ.


***

Chú thích:

(1) Đọc “Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Lính tráng (2)” tại

(2) Đọc “Đời phi công” trên bản PDF tại https://ongvove.files.wordpress.com/2015/09/doiphicong.pdf

(3) Đọc “Hồi ức về một người thân” tại

***

--> Read more..

Thứ Hai, 10 tháng 12, 2018

Tiếng còi tầu thời thơ ấu


“Những chiều nghỉ học, tôi hay tới,
Đón chuyến tầu đi, đến những ga.
Tôi đứng bơ vơ xem tiễn biệt,
Lòng buồn đau xót nỗi chia xa”

(Tế Hanh)

Đó là tâm sự của nhà thơ Tế Hanh khi còn đi học. Tuổi thơ của tôi cũng có những gắn bó với tiếng còi tầu nhưng chắc chắn không thi vị như của nhà thơ thời tiền chiến.

Tôi cũng chẳng được trải qua “cái thú đau thương” khi nghe tiếng còi tầu trong bài hát “Five Hundred Miles” theo điệu dân ca của Mỹ. Đó là chuyện của một anh chàng nghèo “rớt mùng tơi” đi tha phương cầu thực trên một chuyến tầu xa nhà đến 500 dặm. Một bài hát buổn mà khi còn ở trung học tôi được thầy giáo tiếng Anh dậy hát:

“If you miss the train I’m on
You will know that I’m gone
You can hear the whistle blow
Five hundred miles” (1)

Có một bài thơ bằng tiếng Pháp, cũng lấy tựa đề “J'entends Siffler Le Train” nghe thật thống thiết:

“J'ai pensé qu'il valait mieux
Nous quitter sans un adieu
Je n'aurais pas eu le coeur de te revoir
Mais j'entends siffler le train
Que c'est triste un train qui siffle dans le soir”

(Anh nghĩ rằng lúc này
Là lúc mình chia tay
Không một lời từ biệt
Dẫu lòng buồn da diết
Tiếng còi tàu vang vang
Giữa bóng đêm bàng hoàng)

Nhạc Việt cũng có nhiều bài lấy chủ đề đường sắt. Chẳng hạn như bài “Chuyến tàu hoàng hôn” của Minh kỳ & Hoài Linh với những ca từ đi sâu vào lòng người:

“Chiều nao tiễn nhau đi khi bóng ngả xế tà.
Hoàng hôn đến đâu đây màu tím dâng trong hồn ta.
Muốn không gian đừng tan, níu đôi chân thời gian
ngừng trôi cho giây phút chia ly này kéo dài.
Trước khi phân kỳ, ước sao cho tàu đừng đi” (2)

Xe lửa & sân ga: Một đề tài phong phú

Năm 1953 gia đình tôi rời Hà Nội để vào Đà Lạt vì ông cụ thân sinh phục vụ trong Ngự Lâm Quân của vua Bảo Đại. Khi đó, Đà Lạt còn được gọi là “Hoàng triều Cương thổ”, đất của nhà vua! Gia đình chúng tôi mua một căn nhà trên lưng chừng đồi, rất gần với ga Đà Lạt.

Kiến trúc của ga Đà Lạt được xếp vào loại đẹp nhất Đông Dương với hình ảnh ba ngọn núi Lang Bian trên cao nguyên Lâm Viên. Hai kiến trúc sư người Pháp, Moncet và Reveron, đã xây dựng trong khoảng thời gian 6 năm, từ năm 1932 đến năm 1938.

Ga Đà Lạt (hình chụp năm 1948)

Toàn quyền Đông Dương, Paul Doumer, phê duyệt đường sắt từ Tháp Chàm (Tourcham) lên Đà Lạt vào năm 1908. Vì địa hình đồi núi phức tạp trên cao nguyên lắm dốc cao nên phải xây dựng thêm “đường răng cưa” (cog railway) ở giữa. Đây cũng là một trong những tuyến đường sắt răng cưa đầu tiên của thế giới.

Nhân công xây dựng đường sắt vào thời đó chỉ có người Thượng sinh sống trên cao nguyên. Ở Mỹ, những người đi làm đường sắt đầu tiên là người Á Đông, đa số là người Tầu. Dù ở Việt Nam hay ở Mỹ, công nhân đường sắt là những người chịu nhiều gian khổ nhất với đồng lương ít ỏi nhất.

Công trình xây dựng đường sắt răng cưa với những công nhân người Thượng

Trên tuyến đường sắt Tháp Chàm - Đà Lạt có 3 vị trí phải làm hệ thống đường ray có móc răng cưa, cộng thêm 5 vị trí phải làm đường hầm xuyên qua núi. Tổng cộng công trình xây dựng này mất 30 năm để hoàn hoàn thành 84 cây số đường xe lửa từ Phan Rang lên Đà Lạt.

Khi tàu chạy đến gần đoạn răng cưa, lái tàu giảm tốc độ, khởi động giàn bánh răng ở đầu tàu, cho móc vào đường ray răng cưa nằm giữa 2 thanh ray rồi khóa hệ thống bánh răng. Bánh răng của đầu máy bám chặt vào răng cưa đường ray để tàu leo dốc hoặc xuống dốc một cách an toàn, không bị trơn trượt.

Tuyến đường sắt răng cưa Đà Lạt - Tháp Chàm xuyên qua đồi núi

Mới 8 tuổi tôi đã được nghe tiếng còi tầu rúc lên trong từng chuyến tầu Đà Lạt – Tháp Chàm đi và đến sân ga. Thật ra, từ vị trí căn nhà không thể nhìn thấy sân ga nhưng đoạn đường tầu dẫn vào ga chạy ngay trước mắt. Nhìn sang bên kia thung lũng là con đường sắt và gần đó còn thấy bóng dáng Biệt điện Mộng Điệp, thứ phi của Bảo Đại.

Mỗi sáng, khoảng 8 giờ là chuyến tầu rời ga để trực chỉ Tháp Chàm. Buổi chiều, độ 4 giờ, tầu từ Tháp Chàm về Đà Lạt. Tiếng còi tầu rúc lên tựa như chiếc đồng hồ báo sinh hoạt hằng ngày của mọi người. Riêng đối với bọn trẻ chúng tôi, tất cả đều ngưng mọi cuộc chơi đùa để ngắm nhìn con tầu xình xịch lướt qua bên kia thung lũng.  

Đôi khi chúng tôi dơ tay lên vẫy một cách bâng quơ và cũng có khi người trên tầu vẫy lại. Những chuyến tầu qua lại trở thành quen thuộc đến độ thân thương. Có những ngày tầu từ Tháp Chàm về trễ vì những trục trặc dọc đường… bỗng thấy lòng tự nhiên nôn nao như thiếu một cái gì đó.

Căn nhà thời thơ ấu đối diện với đường tầu phía bên kia thung lũng

Trục trặc kỹ thuật trên đường tầu không nhiều nhưng trục trặc vì phá hoại vẫn thường xảy ra. Chính phủ VNCH đã thành lập một tiểu đoàn mang tên “An ninh Thiết lộ” để bảo vệ đường sắt khi hoạt động phá hoại đường của “Mặt trận Giải phóng niền Nam” bắt đầu.

Toa xe đặc biệt được trang bị súng trung liên và đại liên, được tổ chức thành từng trung đội gồm 3 xe. Ba nhiệm vụ chính của các toa xe là: (1) tản thương; (2) cứu viện đoàn tầu bị phục kích; và (3) tuần tiễu trên thiết lộ vào ban đêm.

Sau 1975, đường sắt Đà Lạt – Tháp Chàm ngưng hoạt động. Các đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước được nhập từ Thụy Sĩ nằm hoang phế trên sân ga Đà Lạt và Tháp Chàm. Số phận của các đường ray cũng không kém phần bi đát: được tháo dỡ để trở thành sắt vụn.

Đầu máy xe lửa bỏ hoang trên sân ga Đà Lạt

Tất cả chỉ còn là hoài niệm về tiếng còi tầu của tuổi thơ. Gần đây, những ký ức đó lại trở thành một niềm nuối tiếc của cả đất nước khi Thụy Sĩ đề nghị mua lại những đầu máy xe lửa cũ để tân trang làm phương tiện phục vụ khách du lịch tại đèo Furka.

Các kỹ sư Thụy Sĩ đã đến tận nơi hoang phế để khảo sát những “phế tích”. Họ cẩn thận, hay đúng hơn là “nâng niu”… đống sắt vụn lâu nay vẫn nằm trơ gan cùng tuế nguyệt. Đầu máy xe lửa được di chuyển về trạm Sóng Thần, rồi ra Cảng Sài Gòn để vượt đại dương “tái hồi Thụy Sĩ” trong chiến dịch được mệnh danh là “Back to Switzerland”

Trên xe tải có cờ Việt Nam & Thụy Sĩ với tấm badrole “Back to Switzerland”

Tại Thụy Sĩ, từng chi tiết được các kỹ sư và công nhân tái tạo để bảo đảm đúng nguyên mẫu ban đầu. Và câu chuyện cũng đi đến đoạn kết “có hậu”: những đầu máy xe lửa chạy bằng hơi nước đã hoạt động trở lại để phục vụ khách du lịch.

Dĩ nhiên đầu máy xe lửa “trông bắt mắt” hơn hẳn những ngày nằm lăn lóc như những đống sắt vụn phế thải tại Việt Nam. Khách du lịch chắc ít người biết được chúng đã từng tung hoành trên đường sắt tại Việt Nam.

Đối với những người (tạm coi như đã gắn bó với tiếng còi tầu thời thơ ấu như tôi), chuyện đường xe lửa Tháp Chàm – Đà Lạt lại có một đoạn kết “vô hậu” chứ không phải là… có hậu!

Biết trách ai bây giờ?

Đầu máy xe lửa chuẩn bị vượt đèo Furka sau nhiều năm lưu lạc tại Việt Nam

***

--> Read more..

Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2018

Trường Sinh ngữ Quân đội

Đây là một photo album đặc biệt. Robert Landro là một cựu một cựu chiến binh người Mỹ đã từng phục vụ tại Việt Nam từ năm 1970 đến 1972. Landro thuộc Không lực Hoa Kỳ, anh được biệt phái làm giảng viên trường Sinh ngữ Quân đội (SNQĐ) tại căn cứ Tân Sơn Nhất.

Năm 1971 là thời điển “Việt-Nam-hóa” chiến tranh, quân đội Mỹ từ từ rút khỏi VN. Tuy nhiên, họ có chương trình huấn luyện tiếng Anh căn bản cho một số quân nhân Việt Nam để những quân nhân này tiếp tục du học Hoa Kỳ về các ngành chuyên môn trong quân đội.

Cũng vì sự quá tải của các học viên nên trường SNQĐ phải mở thêm nhiều chi nhánh huấn luyện cho Hải-Lục-Không quân. Trường sinh ngữ nơi Landro dạy nằm trong phi trường Tân Sơn Nhất, trước đó khu này được gọi là “Tent City” vì chỉ là những lều vải dã chiến dành cho quân nhân. Mãi đến năm 1971 mới được xây dựng thành một ngôi trường khang trang như những hình Landro chụp.

Tôi dạy tại các chi nhánh Nguyễn Văn Tráng (dành cho sinh viên sĩ quan Không quân) và sau đó là chi nhánh Phan Thanh Giản (dành cho Hải Quân) nên những tấm hình Landro chụp tại TSN đối với tôi là hoàn toàn chưa hề được xem. Cũng như Micheal Burr (xem bài viết “Đồng ngũ, Đồng nghiệp, Đồng tuế…” tại https://chinhhoiuc.blogspot.com/2017/11/ong-ngu-ong-nghiep-ong-tue.html) Robert Landro là giảng viên tôi cũng chưa từng gặp trong thời kỳ chiến tranh. Riêng Micheal, mãi sau này mới có dịp hội ngộ khi anh trở lại Việt Nam dưới màu áo dân sự.

Photo album này được giới thiệu với sự đồng ý của Landro với những captions trong hình là của chính tác giả. Đây cũng là một bộ sưu tập quý hiếm về một nét của Sài Gòn xưa. Các bạn có thể truy cập trang Facebook của Robert Landro tại:

***

Đây là toàn cảnh của trường SNQĐ tại Tân Sơn Nhất. Tòa nhà bên phải là các lớp học


. Tòa nhà điều hành và phía sau là những lớp học đang được xây dựng. Trường gồm 3 khối lớp học khá đồ sộ. 


Sau khi tốt nghiệp tại trường, rất nhiều khóa sinh được gửi đi du học tại Hoa Kỳ để tiếp tục được đào tạo về chuyên môn quân sự.


Cận ảnh phía bên ngoài các lớp học.


Trường mới bắt đầu hoạt động từ mùa hè năm 1971.


Một ngày tương đối bận rộn trong sinh hoạt tại nhà trường.


Hành lang ngoài các lớp học khá rộng và các học viên đến thụ huấn Anh văn thuộc đủ mọi binh chủng.


Một khóa sinh Không quân.


Trường mới đang trong giai đoạn hoàn chỉnh.


Trong hình là những giảng viên người Mỹ đến trường bằng xe buýt của quân đội. Họ phải mang theo vũ khí (sùng M-16) đến lớp nhưng đạn để riêng. Trong hình người lính mang băng đạn phía bên tay trái. 


Đây là xe buýt quân đội (chúng tôi gọi là “MACV bus”). Hàng ngày, xe buýt chở giảng viên từ MACV Annex nơi chúng tôi ở để đến trường.


Trường SNQĐ ở ngay bên cạnh khu sinh hoạt của các học viên Không quân trong phi trường Tân Sơn Nhất.


Trường hoạt động 2 buổi, từ Thứ hai đến Thứ bảy. Buổi sáng từ 7g đến trưa và buổi chiều từ 1g đến 6g.


Một trạm gác bảo vệ trường.


 Giảng viên người Mỹ thường nói đùa với nhau: nếu VC tấn công trường, chúng tôi sẽ giao súng M-16 cho khóa sinh Không quân, họ là những người chỉ được trang bị súng carbine M-1!


Đây là cổng vào trường có lính gác và bao cát bảo vệ.


Mỗi lớp học có 8 bàn gỗ xếp theo hình vòng cung. Có ghế dài và một ghế dành cho giảng viên.


Mỗi lớp học có hai cửa số trông ra phía ngoài.


Tuy điều kiện sinh hoạt không được tươm tất nhưng các khóa sinh vẫn chăm chỉ học tập.



Bãi giữ xe đầy mầu sắc tại trường.


Bãi giữ xe dành cho các học viên Bộ binh được hưởng chế độ ngoại trú.


Trường có một căng-tin (snack bar) dành cho các giảng viên người Mỹ, phục vụ bánh donuts, sữa tươi và nước ngọt (không được uống bia).


Căng-tin dành cho học viên ở phía sau trường, phục vụ các món mì, phở, nước ngọt và lúc nào cũng có cà phê đá!


Tôi cũng thường vào căng-tin này với các học viên… tại đây chúng tôi thoải mái thực tập tiếng Anh ngoài lớp học.


Đây là phòng hành chánh của trường.



Vào tháng 9/1971 tôi phụ trách các lớp thuộc trình độ trung cấp & cao cấp tại Trường Sinh ngữ Quân đội.


Đây là một lớp học gồm toàn sĩ quan Bộ binh mà tôi đảm nhận trước khi về nước, ngày 14/1/1972.


Giảng viên Doug Thompson thuộc Không quân Hoa Kỳ. Anh là một người ăn nói nhỏ nhẹ và luôn tỏ ra kính trọng các sĩ quan Không quân VN.


.Đại diện Viện Ngữ học Hoa Kỳ (Defense Language Institute - DLI), Tom Hudak, đang chuyện trò với mội sĩ quan Việt Nam.  


Giảng viên Bill Weiershauser đang dạy học trong lớp.


Ngoài những cố vấn quân đội, trường còn có cố vấn dân sự thuộc Viện Ngữ học Hoa Kỳ (Defense Language Institute - DLI).


Trường còn có Giảng viên Dân chính người Việt.


Một giảng viên người Việt.


Giảng viên người Mỹ và các sĩ quan khóa sinh Không quân người Việt.


Khóa sinh sĩ quan Không quân.


Trường có phòng lưu trữ băng ghi âm thu sẵn. Giảng viên có thể mượn băng đem về lớp để học viên nghe.


Danh sách khóa sinh trong một lớp học.


Một số sĩ quan cơ hữu người Việt tại trường SNQĐ.


Vào cuối tuần, trường thường tổ chức các cuộc thi giải trí giữa các khóa sinh. Đây là cuộc thi lái xe máy… người đi chậm nhất sẽ thắng cuộc!


Một cuộc thi chạy bộ.


Giảng viên và các khóa sinh đều là khán giả các cuộc thi giải trí.


Huấn luyện giảng viên người Việt ngay tại trường. Họ là những sĩ quan thuộc đủ mọi binh chủng có trình độ Anh văn được tuyển về đây trong chương trình “Pre-Service Training” trước khi đi học tại Hoa Kỳ.


Một vài khuôn mặt giảng viên người Việt tại trường SNQĐ.


Khuôn mặt giảng viên trẻ


Giảng viên Tom Peckins và các sĩ quan chuẩn bị làm giảng viên.


Những phút vui vẻ của giảng viên Việt – Mỹ trong giờ nghỉ.


Giảng viên Tom Peckins và những chuẩn úy giảng viên mới được tuyển về từ trường Bộ binh Thủ Đức.


Những sĩ quan được tuyển về trường từ các đơn vị.


Thiệp chúc Tết của trường SNQĐ


Tượng đài Kỷ niệm Chiến tranh Việt Nam (Vietnam War Memorial) tại Arlington, Texas. Tượng được khánh thành ngày 25/10/2015.

***

* Tham khảo thêm bài viết "Hồi ức về trường Sinh ngữ Quân đội" tại https://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/09/hoi-uc-ve-truong-sinh-ngu-quan-oi.html,

***  

















































--> Read more..

Popular posts