‘Nghiêm Chỉnh’
(Hình chụp tại BMT năm 1966)
Sở dĩ tôi phải chuyển từ trường Nam tiểu học Đà Lạt sang
trường Đa Nghĩa vì anh Nghiêm đưa ra ý kiến sẽ kèm tôi để học ‘nhảy’, bỏ năm
lớp nhì (tương đương với lớp 4 ngày nay), từ lớp ba lên thẳng lớp nhất để đi
thi Tiểu học.
Kinh nghiệm bản thân từ thời niên thiếu khi còn đi học giúp
tôi nhận ra nếu biết khéo kết hợp một bên là chuyện học hành khô khan với một
bên là văn chương ướt át, người ta sẽ dễ dàng hơn trong việc học.
Ngày xưa khi còn học tiểu học, tôi thích nhất môn toán lớp
Nhất về động tử. Đại khái như hai người đi xe đạp cùng chiều hoặc ngược chiều,
hỏi sau mấy giờ họ đuổi kịp nhau? hoặc gặp nhau? chỗ gặp nhau cách chỗ khởi
hành bao nhiêu kilômét? Những bài toán như vậy rất sống động chứ không phải chỉ
toàn con số khô khan.
Thời kỳ đó, trong sách toán còn có những bài thơ về cách tìm
thời gian và khoảng cách các động tử đồng chiều hoặc ngược chiều giúp cho học
sinh dễ nhớ:
Trên
đường kẻ trước với người sau,
Hai
kẻ đồng chiều muốn gặp nhau
Vận
tốc đôi bên tìm hiệu số
Đường
dài chia với khó chi đâu
hoặc tìm thời gian và khỏang các các động tử ngược chiều gặp
nhau:
Trên
đường kẻ chậm với người mau
Hai
kẻ ngược chiều muốn gặp nhau
Vận
tốc đôi bên tìm tổng số
Đường
dài chia với khó chi đâu.
Anh Nghiêm kèm tôi ‘học nhảy’ - từ lớp Ba, bỏ lớp Nhì để lên
thẳng lớp Nhất - nhưng tôi lại không đậu bằng Tiểu học vào cuối năm lớp Nhất
lại cũng vì… văn chương. Chuyện là như vầy. Đề thi luận văn yêu cầu học sinh
bình giảng câu:
Giàu
đâu những kẻ ngủ trưa,
Sang
đâu những kẻ say sưa tối ngày.
Theo đầu óc non nớt, tôi lý luận những kẻ giàu có mới ngủ
trưa, những người sang trọng mới say sưa! Thế là kỳ thi Tiểu học năm đó tôi bị
rớt và ở lại thêm một năm lớp Nhất. Hóa ra đâu vẫn hoàn đấy!
Có thể nói giữa anh Nghiêm và tôi có một khoảng cách khá xa
về tuổi tác. Đầu óc trẻ con của tôi suy luận, anh ‘qúa già để làm anh và cũng qúa trẻ để làm chú’. Anh Nghiêm vóc
người to lớn, chân tay lông lá nên có lần tôi nghe các bạn của anh học cùng
trường Phương Mai (sau này đổi tên là trường Bùi Thị Xuân, Đà Lạt) gọi anh là
‘Lăng-ti-lông’, tôi cũng không hiểu tại sao anh có biệt danh này.
Trong số những người bạn của anh Nghiêm có những người bước
sang ngành giáo dục như anh Quy, anh Liễn sau này qua Ban Mê Thuột dạy học vào
đúng thời gian tôi cũng theo học tại đó. Thế cho nên, trong lớp thì gọi là thầy
nhưng cũng có những giây phút riêng tư tôi lại quen gọi anh Quy, anh Liễn!
Bức hình duy nhất đầy đủ 4 anh em
(chụp tại 31 Lý Thường Kiệt, BMT, 1963)
Một trong những cái thú của anh Nghiêm là sưu tầm các tờ
chương trình (program) của các rạp xine từ ngoài Hà Nội, có những tờ rất xưa từ
những năm 1930 và cũng có những phim 'thời thượng' như Quo Vadis, Gone With the Wind,
Tant Qu’il y Aura des Homes. Các tờ
chương trình hồi đó thường có tóm tắt cốt truyện phim, giới thiệu các nam nữ
tài tử như Clark Gable, Ava Gardner... tuy in đen trắng, đôi khi có hình màu,
nhưng trình bày rất bắt mắt.
Tờ program phát cho những người mua vé vào xem phim nhưng,
theo chỗ tôi biết, nếu không mua vé cũng có thể xin tại chỗ bán vé để làm
collection. Tôi đoán, anh Nghiêm có được những tờ chương trình của các rạp xine
là do cách thứ hai chứ không thể nào hoàn toàn do đi xem phim vì số lượng các
tờ program rất lớn. Hơn nữa, có nhiều tờ được in từ trước khi anh ra đời năm
1936!
Bộ sưu tập này anh Nghiêm để lại nhà khi gia nhập Không quân
nhưng tôi cũng không hiểu vì sau và vào lúc nào những tờ chương trình này đã
biến mất. Nếu còn thì ngày nay sẽ là bộ sưu tập rất quý giá.
Tôi cũng ghiền đi xem phim từ nhỏ. Chủ Nhật nào mẹ cũng cho
tiền đi xem phim ở rạp Ngọc Lan gần khu Hòa Bình hoặc thả bộ xuống dốc Minh
Mạng đến rạp Ngọc Hiệp. Phim ấn tượng nhất đối với tôi thời đó là Cầu sông Kwai với các tài tử Alec
Guiness, William Holden. Trong phim có cảnh các tù binh đồng minh xếp hàng đi
dựng cầu dưới sự kiểm soát của quân đội Nhật. Tù binh vừa đi vừa huýt gió bài
cầu sông Kwai nghe thật hùng tráng.
Poster phim ‘Cầu sông Kwai'’
Đúng như cái tên do cha mẹ đặt, anh Nghiêm rất nghiêm khắc
trong việc kèm tôi ‘học nhảy’. Anh lúc nào cũng sẵng sàng nhéo tai, thậm chí
còn tát thẳng tay nếu tôi không làm theo hướng dẫn của anh. Mẹ tôi nhiều lúc
cũng xót xa khi thấy cậu con trai nhỏ bị ông anh lớn trừng phạt. Có lần bà phải
thốt lên: “Nó còn bé, dạy nó phải dạy từ
từ chứ sao lại dùng những biện pháp mạnh bạo như vậy”.
Anh Nghiêm thường ra đề toán theo sách có bài giải sẵn nhưng
anh dấu sách giải. Tôi cũng có những cái ‘khôn lỏi’ của con nít. Mỗi khi làm
xong bài toán tôi tò mò muốn biết mình làm có đúng hay không nên thế nào cũng
tìm được nơi dấu sách. Gặp bài nào hắc búa là vội tìm sách giải, có hôm ‘tổ
trác’ đang tham khảo sách bị anh bắt quả tang nên ăn một cái tát nên thân.
Những kỷ niệm về anh Nghiêm không nhiều vì sau này vào Không
quân anh ít về thăm nhà. Theo tôi hiểu, mộng ước của anh là trở thành phi công,
cuối cùng anh cũng vào Không quân nhưng chỉ làm việc ở dưới đất chứ không được
bay bổng trên trời như anh hằng ao ước.
Trong khi đó, bạn cùng lớp với anh Nghiêm là thầy Đặng Kim
Quy sau này cũng vào không quân để tung hoành trên đôi cánh sắt. Không ít bạn
học của tôi trên BMT cũng gia nhập không quân như Vĩnh Anh, Nguyễn Mạnh Dũng,
Nguyễn Đăng Hoàn, Nguyễn Kim Khoa, Nguyễn Văn Quang, Trịnh Viết Bốn, Trần Hen…
Vào thời anh Nghiêm, một nhân vật được giới thanh niên ưa
‘bay nhẩy’ xem là thần tượng: Đại tá Nguyễn Xuân Vinh (*) và cũng là nhà văn
Toàn Phong với tác phẩm Đời Phi Công.
Sự phổ biến rộng rãi của cuốn Đời Phi Công đã khiến giới thanh niên, trong đó có anh Nghiêm, hiểu biết thêm về
Không quân Việt Nam .
Quân lực VNCH đã tuyển mộ được nhiều thanh niên ưu tú để gửi sang theo học
những khóa huấn luyện bay những loại phi cơ tối tân của Không Quân và Hải Quân
Hoa Kỳ.
Chỉ tiếc một điều là riêng với anh Nghiêm, mộng ước đó không
bao giờ trở thành sự thật khi anh phải phục vụ trong ngành radar ở dưới đất.
Anh Nghiêm, có lẽ cũng tương tự như những trường hợp bất đắc chí của binh nhì không quân Nguyễn Thụy Long, tác giả Loan mắt nhung, và trung sĩ Dương Hùng
Cường trong Buồn vui phi trường với
bút hiệu Dê Húc Càn.
Tôi nghĩ bất đắc chí là lý do chính khiến anh
Nghiêm ít liên lạc với gia đình kể từ khi đi lính. Chỉ thỉnh thoảng biết được
tin anh, khi thì ở Tân Sơn Nhất, khi thì ra tận ngoài Đà Nẵng và lần cuối cùng
được biết anh đóng tại phi trường Trà Nóc, Cần Thơ. Có thể nói là anh đã đi
khắp 4 vùng chiến thuật trong suốt thời kỳ chiến tranh.
Khi gia đình tôi
chuyển từ Đà Lạt sang BMT anh có về 2 lần vào những năm 1963 và cuối năm 1966.
Anh lên BMT năm 1963 sau khi đi tu nghiệp tại Mỹ và đem quà về cho gia đình.
Tôi còn nhớ anh
mua cho tôi một chiếc áo jacket, áo hơi chặt, có lót lông thú bên trong và trên
ngực áo có huy hiệu của tiểu bang Hawaii. Chắc anh mua tại Hawaii vì trong số
quà của anh có cả xâu chìa khóa có hình những cô gái nhún nhảy với hàng chữ
Aloha Hawaii. Chiếc áo jacket này ít khi rời tôi, hễ trời BMT hơi trở lạnh tôi
vội vàng diện ngay. Nhiều hôm buổi sáng đi học trời lạnh nhưng đến buổi trưa
trời nóng chảy mỡ tôi vẫn mặc jacket về đến tận nhà!
Sau ngày
30/4/1975 gia đình tôi không biết tin tức gì về anh Nghiêm và coi như anh đã
mất tích. Mãi đến đầu năm 1981 tôi mới bất ngờ nhận được một lá thư anh viết
bằng loại phong bì aerogram mang con dấu bưu điện Oklahoma City. Thư đề tên
người nhận: Y tá Trần Thị Giàu, Bệnh viện Sài Gòn. Trên phong bì còn
viết thêm một câu “Cô Trần Thị Giàu,
người Huế, có chồng là Nguyễn Ngọc Chính… Ông bà nào có biết chỉ dùm…” (Thư
này hiện nay đã thất lạc nên tôi chỉ ghi lại đại ý nội dung).
Tính anh Nghiêm
là như vậy. Lúc nào cũng cẩn thận, đôi khi cẩn thận đến mức thái quá. Trong khi
những người rời Việt Nam trước ngày 30/4/75 đều đã liên lạc về nhà, anh Nghiêm
thì lại sợ những người ở nhà bị liên lụy! Có lẽ anh ở tại tiểu bang Oklahoma ít
người Việt nên không nắm rõ tình hình?
Thế rồi anh Nghiêm bất ngờ từ trần ngày 16/10/1985.
Cô Loan và chú Thanh ở tiểu bang Kansas
được báo tin vì là thân nhân duy nhất tại Mỹ của anh. Gia đình cô Loan lái xe đến tiểu
bang Oklahoma lo tổ chức đám tang chu đáo đưa
anh đến nơi an nghỉ cuối cùng tại Weatherford ,
Oklahoma City.
Lúc còn sống, anh Nghiêm có đóng bảo hiểm nhân mạng mà người
thụ hưởng là mẹ tôi ở Việt Nam nên cô Loan phải đứng ra lo thủ tục giấy tờ để
gia đình ở trong nước có thể thừa hưởng tiền bồi thường. Thủ tục rất nhiêu khê
vì phải nhờ luật sư tại Mỹ lo từ đầu đến cuối. Từ Việt Nam , mẹ tôi
phải làm giấy ủy quyền cho cô Loan là người thừa kế qua sự can thiệp của luật
sư.
Cô Loan dọn dẹp căn phòng của anh Nghiêm
Trong lúc dọn dẹp căn nhà anh Nghiêm ở Weatherford, cô Loan
có gom lại một số đồ đạc của anh Nghiêm và gửi về Việt Nam . Trong số
đó có một bức thư của anh viết cho gia đình nhưng lại không gửi, cô Loan có ghi
ở góc phải: "Chính mến – tờ thư này cô
thấy ở nhà Nghiêm, không hiểu sao Nghiêm chưa gửi – viết từ năm 80-81 nên cô
copy gửi cho bọn cháu". Thư nguyên văn như sau:
Bức thư anh Nghiêm viết (1980? 1981?)
nhưng lại không gửi về Việt Nam .
Các em thương mến,
Đây là chuyến quà đầu
tiên anh gửi về Đà Lạt cho mợ gồm 4m6 hàng soie màu tím than để mợ may áo mặc
tết + 2 khăn vuông 1 màu hạt dẻ và 1 màu vàng. Anh cũng kèm theo cho Dung Oanh
2 cây viết nguyên tử + 1 hộp thuốc cảm TYLENOL 100 viên cho người lớn uống
mỗi lần 2 viên (khi bị cảm sốt) chỉ uống độ 3 hay 4 lần trong 1 ngày – không
được uống quá 8 viên trong 24h [những chữ gạch dưới là của anh Nghiêm –
Chú thích của NNC]. Thuốc này rất tốt,
trị đau đầu, nhức mỏi, cảm sốt. Nghe cô Loan nói bán được 7 hay 800đ một hộp
lận. Còn một hộp thuốc bổ GERITOL gồm 114 viên, có thể uống tối đa 3 viên một
ngày, chia làm 3 lần, mỗi lần uống một viên.
Hy vọng quà này không
bị thất lạc để anh có thể tiếp tục gửi về nhiều quà cho mợ và các em. Anh đã
mua vải đen may quần tây cho Dung và Oanh nhưng vì nặng quá nên anh phải đợi
chuyến sau sẽ gửi về cho Dung Oanh. Vậy khi nhận được quà nhớ đánh điện tín cho
anh biết để anh gửi tiếp về.
Anh gửi kèm theo đây
là tấm hình chú Thanh chụp cho anh ngày anh ra trường. Hôm phát bằng ra trường
có cả gia đình cô Loan sang dự lễ và sau đó anh nghỉ 1 tuần qua bên cô chú
Thanh Loan chơi rồi ăn bún chả, cơm Việt Nam thật là tuyệt vời…
Anh Nghiêm và gia đình Cô Loan - Chú Thanh trong buổi lễ tốt nghiệp
(Hình chụp tại Oklahoma, năm 1980)
Thư được photocopy lại nên bị cắt ngang tại đó. Tôi đoán anh
Nghiêm không gửi thư này vì không gửi quà về Đà Lạt, thay vào đó anh gửi về Sài
Gòn theo địa chỉ của tôi. Vẫn tính cẩn thận, anh sợ người thân bị dòm ngó trên
Đà Lạt khi đi lãnh quà, còn gửi về Sài Gòn đỡ rắc rối hơn.
Nhìn danh sách những món quà anh tính gửi về Đà Lạt với
những lời dặn dò tỷ mỷ liều lượng uống thuốc có thể thấy ngay anh là người cẩn
thận đến chừng nào. Nhìn ảnh cô Loan chụp căn nhà anh sinh sống tại Weatherford
trước khi qua đời mới cảm thấy cuộc sống cô đơn của anh nơi đất khách quê
người.
Anh Nghiêm tại Oklahoma ( 1982)
Anh Nghiêm đã sống một cuộc đời cô độc, một thân một mình,
không vợ không con ngay từ khi ở Việt Nam cho đến khi từ trần tại Hoa Kỳ
vẫn một thân một mình. Một lần nữa, phải nói đến… số mạng.
May He Rest In Peace
Chú Thanh bên mộ anh Nghiêm
(hình chụp tháng 5/2007)
***
Chú thích:
(*) Ông Nguyễn Xuân Vinh, ra đời năm 1930 tại Yên Bái, là
giáo sư danh dự ngành kỹ thuật không gian (professor emeritus of aerospace
engineering) của Đại học Michigan, Hoa Kỳ. Ông là nhà toán học, nhà khoa học
không gian xuất sắc của Mỹ đồng thời cũng là cựu Tư lệnh Không quân VNCH từ năm
1958 đến 1962.
Năm 1951 ông nhập ngũ theo lệnh động viên và tham gia khóa 1
Trường Sĩ quan Trừ bị Nam Định và Thủ Đức. Năm 1952-1955 theo học tại Học viện
Không quân ở Salon-de-Provence, Pháp (École de l'Air) và sau đó lưu trú tại
Pháp và Maroc. Trong thời gian này ông lấy bằng cử nhân toán ở Đại học
Marseille.
Ông được bổ nhiệm chức vụ Tham mưu trưởng Không quân VNCH
năm 1957 và tháng 2/1958 giữ chức Tư lệnh Không quân. Đến năm 1962, ông rời bỏ
chức vụ Tư lệnh để đi du học ở Hoa Kỳ và ông là người đầu tiên được cấp bằng
tiến sĩ về khoa học không gian tại Đại học Colorado năm 1965.
Từ năm 1968, ông Vinh làm giảng sư (associate professor) tại
Đại học Michigan
đến năm 1972, được phong chức giáo sư (professor) của viện đại học này. Cũng
trong năm này ông trở thành tiến sĩ quốc gia toán học tại Đại học Sorbonne, Paris , Pháp.
Đại tá Nguyễn Xuân Vinh,
cựu Tư lệnh Không quân VNCH
Năm 1982, ông là giáo sư (chair professor) của ngành toán
ứng dụng tại Đại học Quốc gia Thanh Hoa (National Tsing
Hua University )
ở Đài Loan. Hai năm sau, ông là người Hoa Kỳ thứ ba và là người Á châu đầu tiên
được bầu vào Viện Hàn lâm Quốc gia Hàng không và Không gian Pháp (Académie
Nationale de l'Air et de l'Espace). Năm 1986 ông trở thành viện sĩ chính thức
của Viện Hàn lâm Không gian Quốc tế (International Academy of Astronautics).
Năm 1994 ông nhận giải thưởng Mechanics and Control of Flight của American Institute of
Aeronautics and Astronautics và năm 1996, ông nhận giải thưởng Excellence 2000 Award của Pan Asian
American Chamber of Commerce.
Khi về hưu vào năm 1998, ông được Hội đồng Quản trị (Board
of Regents) tại Đại học Michigan phong tặng chức Giáo sư Danh dự vì công lao
đóng góp cho khoa học và giáo dục. Năm 2006, ông nhận Giải thưởng Dirk Brouwer về Cơ học Du hành Không gian của Hội Du
hành Không gian Hoa Kỳ (American Astronautical Society).
Trong nhiều năm ông đã được tham gia thuyết trình, thỉnh giảng
tại rất nhiều đại học lớn cũng như hội nghị quốc tế khắp nơi trên thế giới bao
gồm Mỹ, Canada, Anh, Pháp, Áo, Đức, Ý, Hoà Lan, Thụy Sĩ, Na Uy, Thụy Điển,
Hungary, Israel, Nhật, Trung Quốc, Đài Loan và Úc.
Về văn chương, ông đã có những tác phẩm nổi tiếng như Gương Danh Tướng là một tập sách nhỏ
chưa đến 100 trang, do Nha Chiến tranh Tâm lý thuộc Bộ Quốc phòng in vào năm
1956. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả là cuốn Đời
Phi Công (1959) được Giải thưởng Văn chương Toàn quốc năm 1961 của VNCH và
cuốn Theo Ánh Tinh Cầu, viết năm
1991.
Cô Loan, với bút danh Hương Kiều Loan, đã có lần phỏng vấn
ông Nguyễn Xuân Vinh trên báo Hồn Quê
năm 2001. Trong bài phỏng vấn, ông có nói đến cuốn Đời phi công, tác phẩm đoạt giải trong năm 1961 cùng những nhà văn
đàn anh đã thành danh từ nhiều năm trước như các ông Vũ Khắc Khoan và Võ Phiến:
“Đời Phi Công là một
tuyển tập những bức thư của một phi công viết cho một thiếu nữ còn đang là sinh
viên ở đại học để kể cho nàng nghe cuộc đời của những người hàng ngày bay trên
gió mây trời. Tôi bắt đầu viết vào năm 1959 và đăng mỗi tuần một kỳ, vào ngày
thứ Hai, trên báo Tự Do là một nhật báo có nhiều độc giả trên toàn quốc. GS Văn
khoa Phạm Việt Tuyền là chủ nhiệm. Giới trẻ thời đó hay đón đọc vì ai có một
chút mơ mộng cũng có thể tưởng tượng được rằng nếu sau này trở thành phi công
thì mình cũng có thể là người viết những bức thư tâm tình đầy thi vị như thế
này”.
***
(Trích Hồi Ức Một Đời
Người – Chương 4: Thời niên thiếu)
Hồi Ức Một Đời Người
gồm 9 Chương:
- Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
- Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
- Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
- Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
- Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
- Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
- Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
- Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
- Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang
tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000
cho đến ngày xuống lỗ)!
***
1 Comment on Multiply
nguyenngocchinh
wrote on Feb 7, '11
Ngày 7 tháng 2 năm 2011 tôi có nhận được email của anh Nguyễn
Đình Liễn, bạn học của anh Nghiêm tại trường Phương Mai, Đà Lạt. Nội dung như
sau:
"Chinh than men,
"Sang nay anh da doc 2 lan DALAT SUONG MU ma Chinh da gui cho anh. That la tran qui, nhung ky niem tuong nhu moi ngay hom qua, de tuong nho va thuong tiec NGHIEM noi ngan trung vinh biet. Gio phut nay anh khong the noi gi voi Chinh ca, chi muon danh thoi gian nghi den nguoi Ban xau so: NGUYEN NGOC NGHIEM.
"Cam on em Chinh nhe !
"Sang nay anh da doc 2 lan DALAT SUONG MU ma Chinh da gui cho anh. That la tran qui, nhung ky niem tuong nhu moi ngay hom qua, de tuong nho va thuong tiec NGHIEM noi ngan trung vinh biet. Gio phut nay anh khong the noi gi voi Chinh ca, chi muon danh thoi gian nghi den nguoi Ban xau so: NGUYEN NGOC NGHIEM.
"
Trong bài anh có nhắc tới trường Nam Tiểu Học Dalat , tới thập niên 60 nó mang tên gì ? Và trường Phương Mai lúc đầu có cả nam sinh sao ?
Trả lờiXóaNếu tôi nhớ không lầm thì trường Nam Tiểu học Đà Lạt nằm trên đường Đoàn Thị Điểm, không biết ngày nay đổi tên là đường gì. Trường này ở ngay trung tậm thành phố, chỉ vài bước tà đến Khu Hòa Bình. Còn trường Phương Mai dưới thời Bảo Đại gồm cả nam nữ sinh, sang đến thời Ngô Đình Diệm mới đổi là Bùi Thị Xuân chỉ dành riệng cho nữ sinh.
Xóa