Thứ Hai, 26 tháng 5, 2014

Bàn về… “Nghề Cai Trị” (1)

“Không ai dám hành nghề mà mình chưa học qua, thế mà ai cũng nghĩ mình có đủ khả năng cho một nghề khó nhất trong các nghề: đó là “Nghề Cai Trị”

Trên đây là nhận xét của Socrates [1] từ thời Hy Lạp cổ đại mà chúng tôi tạm dịch từ tiếng Anh: “No man undertakes a trade that he has not learned; yet everyone thinks himself sufficiently qualified for the hardest of all trades: that of Government”. Từ ngữ “Government” được dịch thành “Nghề Cai Trị” cho hợp với ngữ cảnh của câu nói.

Đúng ra thì “Government” có nghĩa chính xác là “Chính Phủ” trong tiếng Việt, có xuất xứ từ một thuật ngữ của Trung Quốc: 政府. Thuở xa xưa, vào thời Đường và Tống bên Tàu, từ ngữ này hàm ý các tể tướng điều hành và xử lý từ chuyện quốc sự đến dân sự. Sau này, từ ngữ “Chính Phủ” được dùng để chỉ cơ quan thi hành quyền lực quốc gia hay còn gọi là cơ quan hành chính quốc gia.

Từ ngữ “Chính Phủ” trong ngôn ngữ của các nước phương Tây có xuất xứ từ gốc tiếng Hy Lạp “Κυβερνήτης” (kubernites) với nghĩa “người lái tàu” (steersman), người chủ quản (governor). Từ đó, tiếng Anh gọi là “Government”, tiếng Pháp “Gouvernement”, tiếng Đức “Regierung”…

Phạm vi bài viết này chỉ bàn về những điểm nổi bật, bao gồm thành tựu cũng như thất bại của “nhà cai trị” trong các chính phủ Việt Nam kể từ ngày được độc lập, thoát khỏi sự đô hộ của người Pháp cho đến ngày nay.  

Chính phủ đầu tiên trong lịch sử của nước Việt Nam cận đại là Nội các Trần Trọng Kim [2] của Đế quốc Việt Nam, được thành lập ngày 17/4/1945. Nội các này được Bảo Đại, vị vua cuối cùng của Việt Nam, phê chuẩn và ra mắt quốc dân ngày 19/4/1945 [3].

Trong danh sách nội các, đứng đầu với chức vụ Thủ Tướng là ông Trần Trọng Kim, nhà sử học. Phó Tổng trưởng Nội các kiêm Bộ trưởng Ngoại giao là ông Trần Văn Chương, luật sư và cũng là thân phụ của bà Trần Lệ Xuân, vợ của ông Ngô Đình Nhu trong chính phủ Đệ nhất Cộng Hòa, thời kỳ 1955-1963. Ông Chương sau này cũng có một thời gian làm Đại sứ VNCH tại Mỹ thời Đệ Nhất Cộng hòa.

Trần Trọng Kim (1882-1953)

Đáng chú ý trong nội các Trần Trọng Kim còn có một số tên tuổi nổi bật, họ đảm nhận trách nhiệm của những “nhà cai trị” như ông Hoàng Xuân Hãn, Thạc sĩ Toán, giữ chức vụ Bộ trưởng Giáo dục và Mỹ nghệ; ông Trịnh Đình Thảo, luật sư, Bộ trưởng Tư pháp (ông Thảo sau này là Phó Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam, Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam); ông Kha Vạng Cân, kỹ sư, làm Đô trưởng Sài Gòn, sau này làm Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa…

Điểm qua danh sách nội các Trần Trọng Kim ta thấy các thành viên đều là những trí thức khoa bảng, người chuyên môm về ngành nghề nào thì giữ trọng trách đứng đầu cơ quan thuộc ngành nghề đó. Đáng tiếc một điều là thời gian tồn tại của nội các này quá ngắn, không đủ để các “nhà cai trị” thi thố tài “an bang, tế thế” trong bối cảnh một nước Việt Nam hãy còn son trẻ.

Về hình thức, điểm nổi bật của chính phủ Đế quốc Việt Nam khác hẳn cái mà sau này chúng ta gọi là nội các của một thể chế chính trị theo Chủ nghĩa Toàn trị [3], trong đó điều tiên quyết để chọn các thành viên trong nội các phải là người thuộc đảng cầm quyền.

Cờ quẻ Ly của chính phủ Đế quốc Việt Nam, 9/3/1945 – 22/8/1945

Chính phủ Trần Trọng Kim chỉ tồn tại trong 5 tháng sau vụ mà một số nhà sử học gọi là “cướp chính quyền” của Việt Minh để thành lập Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào tháng 8/1945. Khi đó, giữa tình hình quân Nhật đầu hàng Đồng minh, Mặt trận Việt Minh đã thu hút nhiều đảng phái và nhanh chóng cướp chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim.

Tại một số khu vực, khi mặt trận Việt Minh cướp chính quyền còn xảy ra xung đột với các các nhóm vũ trang của Đại Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng dù các bên đều cùng theo đuổi mục tiêu buộc Đế quốc Việt Nam bàn giao chính quyền cho họ. Việt Minh gọi đây là cuộc “Cách mạng tháng Tám”, lấy 2/9/1945 là ngày tuyên bố độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) và họp phiên chính thức đầu tiên vào ngày hôm sau.

Chính phủ do Việt Minh lập ra trên cơ sở cải tổ Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam được Đại hội Quốc dân ngày 16 và 17/8/1945 tại Tân Trào thành lập. Danh sách chính phủ do ông Hồ Chí Minh [5] thuộc đảng Cộng Sản Đông Dương làm Chủ tịch Chính phủ kiêm Bộ trưởng Ngoại giao.

Những thành viên nội các thuộc đảng Cộng Sản Đông Dương gồm các ông Chu Văn Tấn (Bộ trưởng Quốc phòng), Võ Nguyên Giáp (Bộ trưởng Nội vụ, kiêm nhiệm Thứ trưởng Quốc phòng), Trần Huy Liệu (Bộ trưởng Tuyên truyền), Phạm Ngọc Thạch (Bộ trưởng Y tế)…

Những người thuộc đảng Dân Chủ là các ông Vũ Đình Hòe (Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục), Dương Đức Hiền (Bộ trưởng Thanh niên) và những người không đảng phái gồm các ông Nguyễn Mạnh Hà (Bộ trưởng Quốc dân Kinh tế), Đào Trọng Kim (Bộ trưởng Giao thông Công chính) và Nguyễn Văn Tố (Bộ trưởng Cứu tế Xã hội).

Sau khi có sự thương lượng giữa Việt Minh với Việt Quốc và Việt Cách, chính phủ Cách mạng Lâm thời tồn tại đến hết năm 1945 và Chính phủ Liên hiệp Lâm thời chính thức được lập ra ngày 1/1/1946. Cựu hoàng Bảo Đại và Giám mục Lê Hữu Từ được mời làm Cố vấn Tối cao Chính phủ VNDCCH.

Cờ Đông Dương Cộng sản Liên đoàn

Chính phủ non trẻ của ông Hồ Chí Minh có một số điểm son đáng ghi nhận với chiến lược chống “3 thứ giặc”: giặc dốt, giặc đói và giặc ngoại xâm. Về “giặc dốt”, những “nhà cai trị” chủ trương xóa nạn mù chữ bằng cách mở các lớp “Bình dân Học vụ”. Tháng 9/1945 ông Hồ Chí Minh viết thư gửi học trò nhân ngày khai trường có đoạn viết:

“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.

Để diệt "giặc đói", ngoài việc kêu gọi tăng gia sản xuất, ông đề nghị đồng bào “cứ 10 ngày nhịn ăn 1 bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa” để đem số gạo tiết kiệm được cứu dân nghèo. Ngoài ra, trong năm 1945, chính phủ khuyến khích người dân đóng góp vào ngân sách quốc gia qua “Tuần Lễ Vàng” nhằm tháo gỡ sự khó khăn tài chính của đất nước. Theo thống kê, “Tuần Lễ Vàng” đã quyên góp được tổng cộng 20 triệu đồng (tiền thời kỳ đó) và 370 kilôgam vàng.

Để đối phó với giặc ngoại xâm, chính phủ của ông Hồ Chí Minh thi hành một chính sách đối ngoại mềm dẻo và nhẫn nhịn. Ông nói: “Chính sách của ta hiện nay là chính sách Câu Tiễn, nhưng nhẫn nhục không phải là khuất phục”.

Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập trên quảng trường Ba Đình

Ngoài một số thành tựu nhất định như đã nói ở trên, Chính phủ VNDCCH trong suốt thời gian nắm quyền đã phạm phải những sai lầm đáng tiếc. Trước tiên phải nói đến chính sách cải cách ruộng đất tại miền Bắc trong khoảng thời gian từ 1953-1956 mà ông Hồ Chí Minh đã hết lời ca tụng:

“Luật cải cách ruộng đất của ta chí nhân, chí nghĩa, hợp lí hợp tình, chẳng những là làm cho cố nông, bần nông, trung nông ở dưới có ruộng cày, nhưng đồng thời chiếu cố đồng bào phú nông, đồng thời chiếu cố đồng bào địa chủ".

Trưởng ban chỉ đạo “cải cách ruộng đất” là Trường Chinh, khi đó giữ vai trò Tổng Bí Thư Đảng. Chương trình cải cách ruộng đất được áp dụng qua bốn bước chính: (1) Huấn luyện cán bộ; (2) Chiến dịch giảm tô; (3) Chiến dịch cải cách ruộng đất; và (4) Chiến dịch sửa sai.

Trên lý thuyết, những người theo chủ nghĩa cộng sản cho rằng phải cải cách ruộng đất để lập lại công bằng xã hội, đồng thời thiết lập nền chuyên chính vô sản nhằm tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng. Trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Manifesto), Karl Marx đã tuyên bố: "Cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc".

Tại miền Bắc, luật cải cách ruộng đất dựa theo mô hình "Thổ địa Cải cách" của Trung Quốc trong thời gian 1946–1949 với sự cố vấn trực tiếp của các cán bộ đến từ Trung Quốc. Nhìn chung, sau 3 năm tiến hành, cuộc cải cách trên nguyên tắc đã phân chia lại ruộng đất cho đa số nông dân miền Bắc, xóa bỏ giai cấp địa chủ phong kiến. Tuy nhiên, việc áp đặt các biện pháp rập khuôn từ cải cách ruộng đất của Trung Quốc đã gây ra nhiều phương hại và tổn thất.

Tổng cộng có 6 đợt cải cách ruộng đất. Từ cuối năm 1954, dưới sức ép của cố vấn Trung Quốc, chiến dịch cải cách ruộng đất bắt đầu được đẩy mạnh và nhanh. Từ giữa năm 1955, ở một số nơi đã xuất hiện hiện tượng đấu tố tràn lan đến độ mất kiểm soát. Cuối năm 1955, đấu tố địa chủ nhiều lúc chỉ đơn thuần vào một lời tố giác nào đó, trong khi những thành viên thuộc “tòa án nhân dân” có toàn quyền xử tử hình hay phạt tù khổ sai đối với người bị tố giác.

Đã xuất hiện tình trạng lạm dụng quyền hành của các cán bộ đội viên đội công tác ruộng đất. Họ đấu tố mọi nhà, đấu tố mọi người, nhưng lại quên đấu tố bản thân. Số người bị quy oan, bị xử lý sai chiếm tỷ lệ rất cao. Quyết liệt nhất là ở Thái Bình, nơi có đến 294 xã được đưa vào cải cách.

Trường hợp nổi bật là án tử hình bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu Cát Thanh Long ở Hà Nội, mẹ nuôi của Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh, có con trai một là trung đoàn trưởng một trung đoàn của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trước đó, trong “Tuần Lễ Vàng”, gia đình bà Năm đã hiến 100 lạng vàng cho chính quyền mới thành lập.

Trường hợp Thiếu tướng Vương Thừa Vũ, Tư lệnh Đại đoàn 308, nguyên Tư lệnh Mặt trận Hà Nội năm 1946 và là Chủ tịch Ủy ban Quân quản Hà Nội, bị các cán bộ cải cách bắt ở ngoại thành Hà Nội vì có người đấu tố ông là "địa chủ, có xuất thân là tư sản, lập trường chính trị không rõ ràng".

Cuộc cải cách đi kèm với chiến dịch đấu tố đã gây ra không khí căng thẳng tại nông thôn, tác hại đến sự đoàn kết dân tộc và ảnh hưởng tới niềm tin của một số tầng lớp nhân dân với Đảng Lao Động Việt Nam.

Cờ VNDCCH

Suốt 1 năm sau đó, chính phủ VNDCCH đã phải tổ chức chiến dịch nhận khuyết điểm và sửa sai, phục hồi danh dự và tài sản cho các trường hợp oan sai, cũng như cách chức nhiều cán bộ cấp cao chịu trách nhiệm về những sai lầm này. Đề cương báo cáo của Bộ Chính trị tại Hội nghị Trung ương lần thứ 10, tháng 10/1956 đã xác nhận:

“Tư tưởng thành phần chủ nghiã trong cải cách ruộng đất có tư tưởng nông dân, đặt bần cố nông lên trên tất cả, thậm chí đặt bần cố nông lên trên Đảng… Tư tưởng tả khuynh trong cải cách ruộng đất đã chớm nở lúc đầu; nó đã đưa đến chỗ học tập kinh nghiệm nước bạn [Trung Quốc] một cách máy móc và không chiụ điều tra nghiên cứu đầy đủ tình hình xã hội ta để định chủ trương chính sách cụ thể cho thích hợp…

Trong lúc thi hành thì một mực nhấn mạnh chống hữu khuynh trong khi những hiện tượng tả khuynh đã trở nên trầm trọng… từ khu trở xuống thì hệ thống cải cách ruộng đất trở nên một hệ thống ở trên cả Đảng và chính quyền. Tác phong độc đoán chuyên quyền, do đó mà trở nên phổ biến, không đi theo đường lối quần chúng, mà thực tế đã trấn áp quần chúng, nhẹ tuyên truyền giáo dục, buộc quần chúng làm những điều trái với ý muốn, với lương tâm của họ, có khi trái với chân lý và chính nghĩa.”

Thống kê cho biết đến tháng 9/1957, chiến dịch sửa sai đã phục hồi danh dự và trả lại tài sản cho khoảng 70-80% số người bị kết án. Theo báo Nhân Dân, bản thân chiến dịch sửa sai cũng gây thêm chết chóc khi những người được phục hồi trả thù những người đã đấu tố họ, hoặc chưa kịp trả thù thị bị thủ tiêu trước để tránh việc trả thù.

Theo dư luận quốc tế, số lượng người bị giết dao động khá lớn: (1) Tuần báo Time, ngày 1/7/1957, cho biết khoảng 15.000 người đã bị xử tử; (2) Theo Gareth Porter có từ 800 đến 2.500 người; (3) Theo Edwin E. Moise con số này vào khoảng 5.000; và (4) Theo giáo sư sử học James P. Harrison số người bị xử tử khoảng 1.500 cộng với 1.500 người bị cầm tù.

Đấu tố (1955)

Tục ngữ Việt Nam có một câu vừa khôi hài lại vừa thâm thúy: “Gậy ông đập lưng ông”. Đó là trường hợp bức công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai ngày 14/9/1958 với nội dung nguyên văn như sau:

“Thưa đồng chí Tổng lý

Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển.

Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng”.

Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng

Trước đó, vào năm 1956, Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm của VNDCCH còn đưa ra nhận định trước Đại biện Lâm thời của Trung Quốc rằng “Hoàng Sa và Trường Sa về mặt lịch sử đã thuộc về lãnh thổ Trung Quốc”. Đây chính là “lá bài tẩy” mà Trung Quốc sử dụng trong cuộc “tranh chấp” về Biển Đông sau này khi họ nói:

“Trong một tuyên bố chính thức vào năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố rõ ràng các đảo ở biển Nam Trung Hoa như là một phần của lãnh thổ chủ quyền của Trung Quốc, và sau đó Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng cũng bày tỏ sự thỏa thuận”

Năm 1958, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền kiểm soát của miền Nam cho nên cũng là một điều dễ hiểu khi những “nhà cai trị” miền Bắc công nhận đó là một phần lãnh thổ thuộc chủ quyền của Trung Quốc theo tinh thần… “quốc tế vô sản” giữa hai đồng minh trong khối Cộng Sản.

Điều trớ trêu là VNDCCH, vào thời điểm 1958, đã không thể ngờ rằng họ thâu tóm miền Nam vào năm 1975. “Gậy ông đập lưng ông” là ở chuyện bất ngờ đó. Sai lầm của công hàm năm 1958 tác hại đến những “nhà cai trị” thế hệ kế tiếp, dù họ đã cố gắng “đi dây”, bám theo “16 chữ vàng và 4 tốt” của Đặng Tiểu Bình để tìm sự an toàn.

Làm chính trị cũng cần phải có sự tiên liệu bên cạnh những yếu tố khác cần có như bản lĩnh, cương quyết, thông minh, dũng cảm theo “vương đạo”… thậm chí kể cả những thủ đoạn giảo quyệt, những lời nói mỵ dân, đạo đức giả theo “bá đạo”...

Xem ra, không phải bất cứ ai cũng có thể nhảy vào “nghề cai trị” như Socrates đã nói ở trên.

 Đặng Tiểu Bình và Hồ Chí Minh thuở còn là… “bạn vàng”

(Còn tiếp)

***

Chú thích:

[1] Socrates hay Sokrates (469-399 TCN) là một triết gia người Hy Lạp cổ đại. Ông sinh ra tại thành phố Athens và đã sống vào một giai đoạn thường được gọi là thời hoàng kim của thành phố này.

Socrates được coi là nhà hiền triết, một công dân mẫu mực của thành Athens, ông là nhà tư tưởng nằm giữa giai đoạn "bóng tối" và "ánh sáng" của nền triết học Hy Lạp cổ đại. Socrates còn được coi là người đặt nền móng cho thuật hùng biện dựa trên hệ thống những câu hỏi đối thoại. Ông có tư tưởng tiến bộ, nổi tiếng về đức hạnh với quan điểm: “Hãy tự biết lấy chính mình” và “Tôi chỉ biết mỗi một điều duy nhất là tôi không biết gì cả”.

Ông bị chính quyền kết tội làm bại hoại tư tưởng của thanh niên do không thừa nhận hệ thống các vị thần cũ được thành Athens thừa nhận và truyền bá các vị thần mới. Vì thế ông bị tuyên phạt “tự tử bằng thuốc độc”, mặc dù ông vẫn có thể thoát khỏi án tử hình này nếu như ông công nhận những cáo trạng và sai lầm của mình, hoặc là rời bỏ Athens. Nhưng với quan điểm "Thà rằng chịu lỗi, hơn là lại gây ra tội lỗi", ông kiên quyết ở lại, đối diện với cái chết 1 cách hiên ngang. Theo ông, sự thật còn quan trọng hơn cả sự sống.

Sinh thời ông không mở trường dạy học, mà thường coi mình là có sứ mệnh của thần linh, nên phải đi dạy bảo mọi người và không làm nghề nào khác. Socrates thường nói chuyện với mọi người tại các nơi công cộng, ông chấp nhận sống một cuộc sống nghèo túng. Học trò xuất sắc của ông là đại hiền triết Platon từng theo học trong 8 năm ròng.

Chân dung Socrates tại Bảo tàng Louvre (Pháp)

(Theo Wikipedia)

[2] Trần Trọng Kim (1882 – 1953) là một học giả danh tiếng, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam với bút hiệu Lệ Thần. Ông cũng là Thủ tướng của Đế quốc Việt Nam (1945) và là Thủ tướng đầu tiên của Việt Nam. Tác giả tác phẩm Việt Nam Sử Lược sinh tại làng Kiều Linh, xã Đan Phố, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, vợ ông là em gái nhà nghiên cứu văn học Bùi Kỷ.

Xuất thân trong một gia đình Nho giáo, ông học chữ Hán từ nhỏ, năm 1897 ông học chữ Pháp tại Trường Pháp-Việt Nam Định. Năm 1900, ông thi đỗ vào Trường thông ngôn và đến 1903 thì tốt nghiệp. Năm 1904, ông làm Thông sự ở Ninh Bình. Năm 1905, ông qua Pháp học trường Thương mại ở Lyon, sau được học bổng vào trường Thuộc địa Pháp. Năm 1909, ông vào học trường Sư phạm Melun và tốt nghiệp ngày 31/7/1911 rồi về nước. Ông lần lượt dạy Trường trung học Bảo hộ (Trường Bưởi), Trường Hậu bổ và Trường nam Sư phạm.

Ông là nhà sư phạm mẫu mực, có uy tín trong xã hội, giữ nhiều chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc như: Thanh tra Tiểu học (1921), Trưởng ban Soạn thảo Sách Giáo khoa Tiểu học (1924), dạy Trường Sư phạm thực hành 1931, Giám đốc các trường nam tiểu học tại Hà Nội (1939). Từ thập niên 1910 đến thập niên 1940, ông cũng viết nhiều sách về sư phạm và lịch sử.

Sau khi Việt Minh giành được chính quyền và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, Trần Trọng Kim lưu vong ra nước ngoài. Sau nhiều năm tháng ở Quảng Châu và Hồng Kông, ngày 6/2/1947, ông trở về Sài Gòn và sống tại nhà luật sư Trịnh Đình Thảo.

Người Pháp thu xếp cho ông trở về Sài Gòn để vận động thành lập chính phủ mới. Về đến Sài Gòn, ông nhận ra rằng những lời hứa hẹn của người Pháp là giả dối nên ông quyết định không tham chính. Năm 1948, ông qua Phnom Penh và sống với người con gái. Sau đó, ông lại trở về Việt Nam sống thầm lặng và mất tại Đà Lạt vào ngày 2/12/1953, thọ 71 tuổi.

Trần Trọng Kim được đánh giá là một học giả uyên thâm cả tân học và cựu học, là người tận tụy cho ngành giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, ông là người có tư tưởng bảo thủ và dân tộc - bảo hoàng. Phan Anh, Bộ trưởng Thanh niên trong Nội các của ông, nhận xét “Trần Trọng Kim là một người yêu nước nhưng không phải là một nhà chính trị”.

Trần Trọng Kim (1882-1953) và tác phẩm Việt Nam Sử Lược

(Theo Wikipedia)

[3] Về Đế quốc Việt Nam, tham khảo thêm các bài viết:

·         “Tên nước Việt Nam, một hành trình lịch sử”

·         “Thời kỳ "Đế Quốc Việt Nam" nhìn qua tem thư”

[4] Chủ nghĩa Toàn trị là một thuật ngữ được sử dụng bởi những nhà khoa học chính trị, đặc biệt là những người trong lĩnh vực chính trị so sánh, để mô tả một chính thể trong đó nhà nước áp đặt Chế độ chuyên chế (totalitarianism), hầu như qui định tất cả mọi hành vi cá nhân và công cộng trên mọi khía cạnh.

Những học giả có ảnh hưởng nhất về chủ nghĩa toàn trị, như Karl Popper, Hannah Arendt, Carl Friedrich, Zbigniew Brzezinski, và Juan Linz đều mô tả mỗi người một cách hơi khác nhau. Điểm chung của tất cả các định nghĩa là sự cố gắng động viên toàn thể dân chúng trong việc hỗ trợ hệ tư tưởng của nhà nước và sự không khoan nhượng đối với những hoạt động không hướng về mục tiêu của nhà nước, trấn áp kèm theo, hoặc là sự điều khiển của nhà nước đối với công đoàn lao động, nhà thờ hoặc là các đảng phái chính trị.

Các chế độ toàn trị duy trì quyền lực chính trị bằng các công cụ như cảnh sát mật, các biện pháp tuyên truyền được gieo rắc qua các phương tiện truyền thông, các quy định và các hạn chế về tự do ngôn luận, việc sử dụng sự giám sát bằng truyền thông và việc sử dụng phổ biến các chiến thuật khủng bố. Các quốc gia cộng sản, các chế độ độc tài quân sự, quân chủ đều là các thể chế chuyên chế theo cách định nghĩa này.

(Theo Wikipedia)

[4] Tham khảo “Bao Daï ou les derniers Jours de l'empire d'Annam” qua bản dịch “Bảo Đại hay những ngày cuối cùng của vương quốc An Nam” trên VNthuquan Thư viện Online (http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n4n3n1n3n31n343tq83a3q3m3237nvn)

[5] Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là một nhà cách mạng, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và lãnh đạo công cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ cho Việt Nam trong thế kỷ 20. Ông là người viết và đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình; là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian 1945 – 1969, Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trong thời gian 1951 – 1969.

Từ khoảng nửa cuối thập niên 1960, Hồ Chí Minh giảm dần các hoạt động chính trị (nhất là trong 3 năm cuối đời khi ông liên tục ốm nặng, phải đi sang Trung Quốc chữa bệnh nhiều lần).

Ông dần lui về nắm giữ vai trò biểu tượng của cách mạng, dành nhiều thời gian để đi thăm hỏi, động viên cán bộ và đồng bào và viết báo. Quyền lực dần dần tập trung về tay bí thư thứ nhất Lê Duẩn và một số nhân vật gần gũi trong Đảng Lao động Việt Nam, những người chủ trương tích cực thúc đẩy quá trình thống nhất đất nước bằng cách đẩy mạnh cuộc chiến tranh ở miền Nam. Tuy nhiên với vai trò và uy tín to lớn, các quyết sách lớn (như tổng tiến công Tết Mậu Thân hay việc đàm phán ở Paris) vẫn cần sự tham gia chỉ đạo và phê duyệt của Hồ Chí Minh.

Là nhà lãnh đạo được nhiều người ngưỡng mộ và tôn sùng, lăng của ông được xây ở Hà Nội, nhiều tượng đài của ông được đặt ở khắp mọi miền Việt Nam, hình ảnh của ông được nhiều người dân treo trong nhà, đặt trên bàn thờ, và được in ở hầu hết mệnh giá đồng tiền Việt Nam. Ông được thờ cúng ở một số đền thờ và chùa Việt Nam. Ông đồng thời cũng là một nhà văn, nhà thơ và nhà báo với nhiều tác phẩm viết bằng cả tiếng Việt, tiếng Hán và tiếng Pháp. Ông đã được tạp chí Times bình chọn là một trong 100 người có ảnh hưởng nhất của thế kỷ 20.

Hồ Chí Minh (1946)

(Theo Wikipedia)

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người, chương 3: Thời thanh niên)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

  1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
  2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
  3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
  4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
  5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
  6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
  7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
  8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
  9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)

Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
--> Read more..

Thứ Năm, 8 tháng 5, 2014

Chân dung một blogger trẻ

Dịp 30/4/2014 tôi nhận được tin nhắn từ một blogger trẻ trên Facebook. Sau này, khi tìm hiểu thêm tôi mới biết message được viết từ Villa Aurora, mà theo lời của Trần Đông Đức trên blog RFA (http://www.rfa.org/vietnamese/blog/reprter-doan-trang-at-usc-04262014072132.html) mô tả:

“Villa Aurora sang trọng như là một tòa lâu đài, nơi hội tụ của những nghệ sỹ tài hoa trên thế giới. Họ tụ tập và giao lưu trong môi trường tuyệt vời nhất để trí tuệ và sự sáng tạo được thêm phần thăng hoa bay bổng”.

Trở lại với message từ một blogger người Việt mà tôi nhận được có nội dung riêng tư nên tôi đã tế nhị liên lạc với tác giả xin phép được đăng nguyên văn để bắt đầu câu chuyện về chân dung một blogger trẻ. Tác giả đồng ý và nguyên văn tin nhắn như sau:   

“Kính gửi chú Chính,

Xin giới thiệu với chú cháu là Đoan Trang, phóng viên của một số tờ báo ở Việt Nam (VnExpress, VNN, Pháp luật TP.HCM, v.v.) cho đến khi trở thành "nhà báo tự do" vào năm ngoái.

Qua một bài viết mới đây trên blog của chú và nhờ comment của một bạn đọc ở dưới, cháu mới biết chú là Nguyễn Ngọc Chính, tác giả của các bài dạy học tiếng Anh trên Kiến Thức Ngày Nay.

Chắc chú không hình dung được là những bài viết đó của chú có tác dụng lớn với cháu như thế nào. Nếu không có những bài đó, cháu sẽ... không sử dụng được tiếng Anh như bây giờ. Cho nên cháu rất mang ơn tác giả Nguyễn Ngọc Chính, và rất vui mừng khi biết được tác giả đó là chú.

Chú vui lòng add Facebook của cháu với ạ, để nếu có thể chú cháu mình trò chuyện thêm. Cháu cảm ơn chú nhiều - vì accept invitation của cháu và đặc biệt vì mục Học báo tiếng Anh năm xưa.

Cháu Trang”

Nguyên văn tin nhắn

Quả thật, tôi biết rất ít về Phạm Đoan Trang, sinh năm 1978, một “nhà báo tự do” đã rời bỏ hàng ngũ “nhà báo chính thống” để tranh đấu cho lý tưởng của mình. Trên trang Thông tấn xã Vàng Anh có ghi lại “Bản tường trình” của cô sau khi tham dự cuộc biểu tình chống Trung Quốc sáng 5/8/2012 tại khu vực Bờ Hồ và bị bắt đưa về trại lưu trú Lộc Hà (http://www.ttxva.net/nha-bao-doan-trang-ban-tuong-trinh/):

“Khi viết những dòng dưới đây (và sau đó đánh máy lại rồi đưa lên mạng), tôi chỉ có một mong muốn duy nhất: Làm thế nào để sự ôn hòa, tinh thần duy lý, thượng tôn pháp luật và tôn trọng con người được phổ biến hơn trong xã hội.

Tôi không muốn, rất không muốn nhìn thấy cảnh những người biểu tình bị công an, dân phòng giằng giật, xô đẩy, thậm chí bẻ tay, bóp cổ. Không muốn những người biểu tình giận dữ gọi công an là “chó”, “súc sinh”, “ác quỷ”, “tay sai Trung Quốc”, v.v… Không muốn những người biểu tình bị bôi nhọ, bêu riếu trên phương tiện thông tin đại chúng, hay phải bước đi trên phố trước ánh mắt… căm thù hoặc rất thiếu thiện cảm, của một số người dân thủ đô.

Bên cạnh đó, tôi cũng không muốn nhìn thấy cảnh trời nắng nóng 39 độ C, anh công an trẻ tuổi gục mặt trên bàn, mắt đỏ ngầu vì thiếu ngủ, than thở với tôi: “Mệt mỏi lắm chị T. ơi!”. Bởi vì công an, an ninh đều là người Việt. Và chính quyền cũng được tạo nên từ những con người. Tôi không muốn có ai bị căm ghét, coi như súc vật.

Phải làm sao? Làm sao để sự ôn hòa, tinh thần duy lý, thượng tôn pháp luật và tôn trọng con người trở thành những giá trị chung của xã hội này? Làm sao để không bao giờ còn chiến tuyến, còn sự đối đầu, chia cắt giữa người dân Việt Nam với nhau nữa?”

Trung tâm lưu trú Lộc Hà
(Ảnh của FB Anh Chí trên TTXVA.org)

Khoảng hơn 10 năm trở lại đây, nhiều bạn trẻ đã chuyển sang những ứng dụng của Internet để bày tỏ quan điểm của mình qua trang blog về các vấn đề được coi là “nhạy cảm”, nhưng bên cạnh đó, có những bạn dùng Facebook, nói theo ngôn ngữ ngày nay, để “tự sướng” với những hình ảnh ăn chơi trên bàn nhậu hoặc “ném đá” lẫn nhau vì những chuyện vô bổ. Cũng vì thế tôi trả lời tin nhắn của Đoan Trang:   

“Chú rất mừng khi nhận được những dòng message của cháu vì nhiều lý do:

(1) Một phóng viên trẻ có đủ dũng khí để từ “lề phải” rẽ sang “lề trái”, hay ít ra cũng không theo lề nào! Trước mắt cho thấy con đường cháu đi được nhiều người ủng hộ và chú mong cháu giữ vững sự tự tin đó;

(2) Quả thật trước đây chú chỉ đọc rất ít những bài viết của cháu và về cháu nhưng bây giờ thì rất mừng được contact với cháu, “hậu sinh khả úy” là vậy;

(3) Chỉ mới hôm qua chú trả lời một bạn đọc trẻ trên Blogspot về mục HBTA trên KTNN ngày nào và cũng rất mừng qua đó chú cháu mình tìm thấy nhau sau một thời gian dài "gặp" nhau trên báo, “trái đất tròn nhưng thế giới lại phẳng” là vậy đó!

Ngay ngày hôm sau (4/5/2014), từ Villa Aurora, Nam California, Đoan Trang viết trên status của mình:

“Mình đang rất vui mừng vì 30/4 năm nay, qua một bài viết trên blog (bài "Tướng Nguyễn Ngọc Loan và bức ảnh hành quyết") được chị Ton Van Anh dẫn lại trên FB, mà mình tìm được blog của chú Nguyễn Ngọc Chính.

Có thể một số bạn trẻ thuộc đời 9x trở đi thấy cái tên này xa lạ, nhưng những bạn ở thế hệ mình và là độc giả của Kiến Thức Ngày Nay chắc khó mà quên cái tên Nguyễn Ngọc Chính, gắn với chuyên mục "Học báo tiếng Anh".

Để nói về chú Nguyen Chinh và chuyên mục này, hay nói về giá trị của "Học báo tiếng Anh", sẽ rất dài dòng. Thời của mình, những năm 1990, là thời mới mở cửa; đa số mọi người đều đang hoặc là chuyển từ tiếng Nga sang tiếng Anh, hoặc là loay hoay với thứ tiếng của "tư bản giãy chết". Internet chưa phát triển, không có google; sách vở, tài liệu cũng có chút chút (in lậu), nhưng phương pháp thì không ai có và chắc chắn là tư liệu không thể bạt ngàn như "thời hội nhập" bây giờ. Mình nhớ láng máng năm 1994, cao thủ tiếng Anh hiện nay của chúng ta là Anh Gau Pham còn phải lọ mọ ra Hồ Gươm, Văn Miếu tìm Tây balo gạ nói chuyện, hòng nâng cao trình độ ngoại ngữ của anh ấy 

Nói chung việc học ngoại ngữ dưới mái trường XHCN rất là chán. Cho nên với những đứa như mình lúc ấy, chuyên mục "Học báo tiếng Anh" của Kiến Thức Ngày Nay giống như một sự gợi cảm hứng và giữ lửa vậy. Lần đầu tiên mình biết là báo chí phương Tây nó có những thông tin như thế, như thế, và cách diễn đạt của nó thật là hay. Lần đầu tiên mình nghe nói đến các khái niệm "thực phẩm biến đổi gene", "xung đột sắc tộc", "nỗi sợ không gian mạng", v.v. Năm 1999, Time có loạt bài về chân dung 100 nhân vật thế kỷ. Nhờ "Học báo tiếng Anh" mà lần đầu mình biết đến nhiều nhân vật trong 100 gương mặt này và quan tâm đến việc thế giới nghĩ gì về họ.

Nói chung là rất thú vị... mà trong khuôn khổ một status thì không nói hết được, nên chỉ xin tóm gọn lại là: Không có "Học báo tiếng Anh" thì không chắc mình đã có ý thức về việc học tiếng Anh và càng không bao giờ viết được bằng tiếng Anh.

Với tư cách một độc giả, mình muốn cảm ơn chú Nguyễn Ngọc Chính của "Học báo tiếng Anh" nhiều nhiều. Cũng nói thêm là, mình cảm ơn cả mục "ABC Kinh tế" của tác giả Đức Minh (mà sau này mình mới biết là nhà báo Trần Trọng Thức), và "Chuyện Đông Chuyện Tây" của bác An Chi. "ABC Kinh tế" làm cho mình thích kinh tế học, và "Chuyện Đông Chuyện Tây" thì khiến mình hiểu rằng sự tỉ mỉ, cẩn thận, trách nhiệm trong nghiên cứu và truyền thông cần thiết đến mức nào...”

“Học Báo Tiếng Anh”

Ngày xa xưa, Kiến Thức Ngày Nay là một bán nguyệt san (sau này tăng một tháng 3 kỳ), với phương châm “Hãy luôn làm giàu kiến thức của bạn”. Tờ báo có kích cỡ như Reader’s Digest của Mỹ hoặc Phổ Thông của Nguyễn Vỹ trước năm 1975 tại Sài Gòn.

“Chuyện Đông Chuyện Tây”

Ngoài những chuyên mục như Học Báo Tiếng Anh, “Chuyện Đông Chuyện Tây”, “ABC Kinh Tế” còn có những mục như “Sức Khỏe Của Bạn” (Bác sĩ Dương Minh Hoàng), “Giải Đáp Pháp Luật” (Luật sư Trương Thị Hòa) và trang hí họa “Thế Giới Dưới Mắt Chóe”. 

Thế Giới Dưới Mắt Chóe

Trở lại với chuyện tranh đấu của Đoan Trang. Tôi đã bỏ ra mấy ngày để tìm hiểu về những bài viết của cô và những bài người khác viết về cô trên mạng. Phải nói là khen cũng nhiều nhưng chê cũng không ít. Khen hay chê còn tùy theo chính kiến của người đọc nhưng quan trọng hơn cả là thái độ dám chấp bút của một phóng viên trẻ về những vấn đề “gai góc” của Việt Nam.

Tôi không nói đến chuyện khen nhưng lại chú ý những đến lời chê bai như Đông La trong bài viết “Đoan Trang – Tuổi nhỏ nhưng sai lầm không nhỏ” (http://donglasg.blogspot.com/2013/09/oan-trang-tuoi-nho-nhung-sai-lam-khong.html) với lời mở đầu khá gay gắt: “…thấy con bé Đoan Trang nó lại đi quậy khắp nơi nhân cuộc điều trần về báo cáo Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (Universal Periodic Review - UPR) của Việt Nam vừa qua tại Geneva, Thụy Sĩ…”

Với phần “Giới thiệu bản thân” ngay bên trái bài viết, người đọc hiểu ngay chính kiến của Đông La: “Giải thưởng Lý luận Phê bình 2013 của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam. Giải thưởng cuộc thi thơ Hội Nhà Văn TPHCM 1986. Tặng thưởng thơ TC Văn nghệ Quân đội 1998. Tặng thưởng phê bình TC Văn nghệ Quân đội 1997. Giải A sáng tạo Khoa học Kỹ thuật TPHCM 1993”.

Qua bài viết này, người đọc hiểu rõ hơn về chính kiến của Đông La: “Trong văn bản mạo danh, thậm xưng, ngoa ngôn của một nhóm viết bậy mà dám xưng là Việt Nam: “Tuyên bố của mạng lưới blogger Việt Nam”, chủ trò là Đoan Trang, người từng có tiền sự khi làm ở VietNamNet, có viết: “…chúng tôi kêu gọi chính quyền Việt Nam và Hội Đồng Nhân Quyền xem xét lại Điều 258 của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009 – “tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”.     

Đông La còn nhắc đến Điều 19 của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng và biểu đạt. Quyền này bao gồm sự tự do tư tưởng mà không bị cản trở, được tự do tìm kiếm, thu nhận và quảng bá tin tức và ý kiến qua mọi phương tiện truyền thông bất kể biên giới”.

Kèm sau đó là nguyên văn tiếng Anh: “Article 19: Everyone has the right to freedom of opinion and expression; this right includes freedom to hold opinions without interference and to seek, receive and impart information and ideas through any media and regardless of frontiers”.

Đông La giải thích thêm: “Chữ “right” theo từ điển Anh – Việt mà những người soạn từ điển ở ta dịch ra có nhiều nghĩa, trong đó có: (1) lẽ phải, đúng, có lý và (2) quyền. Như vậy chữ “quyền” ở đây không có nghĩa là quyền lực như “power”, quyền hạn như “jurisdiction” mà chỉ tính chất đúng đắn của các hành động. Vì thế “Everyone has the right to freedom of opinion and expression” sẽ có 2 cách dịch theo kiểu Việt hóa cho xuôi tai:

1- Mọi người có quyền tự do ý kiến và biểu đạt.
2- Mọi người đúng (có lý) khi tự do ý kiến và biểu đạt. [Theo tôi, câu này dù viết bằng tiếng Việt nhưng lại rất tối nghĩa hay là tôi tối dạ nên không hiểu ý của tác giả!]  

Hai cách diễn đạt khác nhau nhưng bản chất là đồng nghĩa. Nhưng về mức độ rõ ràng là khác nhau. Một điều đúng có thể làm khác với việc có quyền làm điều đó” [??? !!!].

Cuối cùng, Đông La nêu ra ý kiến: “Vì thế Điều 19 nên dịch chính xác hơn là: Mọi người đúng khi tự do ý kiến và biểu đạt; điều đúng đắn này bao gồm tự do giữ ý kiến mà không có sự can thiệp, tự do tìm kiếm, thu nhận và phổ biến thông tin, tư tưởng qua mọi phương tiện truyền thông và bất kể biên giới”.

Như vậy, nếu theo Đông La, hóa ra là người Pháp cũng hiểu sai khi họ dịch: “Tout individu a droit à la liberté d'opinion et d'expression...”. Không biết người Pháp hiểu sai hay là Đông La đã “Việt-hóa” chữ “right” quá thiển cận theo cách của ông?

Trang blog của Đông La

Thế mạnh của Đoan Trang là khả năng viết bằng 2 ngôn ngữ: tiếng Việt và tiếng Anh. Cho đến hôm nay (7/5/2014) trên blog của cô (http://www.phamdoantrang.com/) đã có 40 bài viết tiếng Anh, một con số khá khiêm tốn nhưng đối với một người Việt đây là một thành tích đáng hoan nghênh trong tình hình giới truyền thông nước ngoài muốn tìm hiểu về Việt Nam.

Một trong những lý do Đoan Trang được University of South California tài trợ để ở lại làm công việc nghiên cứu thêm 10 tháng tại Hoa Kỳ là khả năng diễn đạt khá lưu loát bằng tiếng Anh của cô. Hơn nữa, một trong những điều kiện đầu tiên các đại học Mỹ chọn ứng viên làm fellowship, một hình thức nghiên cứu, là khả năng viết và nói tiếng Anh có trình độ như Đoan Trang.

Văn phong tiếng Anh của cô hình như đã được “cập-nhật-hóa” như trong một bài viết gần đây nhất: “The recent arrest of the Basam web site founder highlights how one penal code provision, Article 258, can be stretched by the ruling Communist Party of Vietnam to take away anyone’s freedom at any time for doing anything that’s not state-sanctioned”. Tôi nghĩ, một phóng viên Anh hay Mỹ cũng sẽ chỉ viết đến như vậy nhưng chưa chắc họ có sáng tạo trong nghệ thuật dùng chữ như “… to take away anyone’s freedom at any time for doing anything…” 

Văn phong tiếng Việt của Đoan Trang lại có khi.. “tưng tửng” như giọng điệu của người “điên” mà người miền Bắc gọi là “hâm”. Tôi thích bài viết ngắn mà thâm thúy dưới đây trong số hàng loạt bài thuộc loại chính luận nghiêm chỉnh:

“Chuyện chú Ba

Theo chỗ nhà cháu được biết thì trong đời thường, chú Ba là một người cha tuyệt vời. Chú thương yêu ba em vô cùng, phải nói là hiếm có người cha nào thương con như vậy, đến nỗi dù lương tháng chỉ mười mấy triệu, chú cũng cùng dì ráng hết sức để chăm lo các em, đưa các em ra nước ngoài ăn học cho bằng bạn bằng bè. Thiên hạ có đứa xấu mồm bảo chú tham nhũng; nhà cháu thì chỉ thấy chú thương con mới làm thế: sẵn sàng hy sinh cả danh dự, chấp nhận tiếng xấu "gia đình trị" để lo lắng cho sự nghiệp của con.

Ai từng có cơ hội làm việc cùng chú cũng đều dành những lời lẽ tốt đẹp nhất để nói về chú: đẹp trai, thông minh, năng động, phải nói là tài năng. Chú có thể đọc diễn văn một mạch 45 phút không cần cầm giấy. Chú có thể nói chính xác diện tích quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, phần đảo nào đang do quân đội nước nào nắm giữ. Chú còn là người quyết đoán, dám nghĩ, dám làm: Một tay chú xoay xở nuôi nấng, bảo lãnh cả VinaShin, phát triển rồi cơ cấu lại các tập đoàn kinh tế.

Nhưng mà anh em người ta quý chú nhất ở cái nghĩa, cái tình của chú. Chú Ba cháu là người rất trọng ân nghĩa. Ai đã làm gì cho chú thì chú nhớ suốt đời, và không chỉ nhớ suông, chú còn đền đáp người ta xứng đáng, quyết không bao giờ để ai bị thiệt, nhất là khi người ta lại vì chú mà bị thiệt thì chú không thể nào chấp nhận. Nên dù ở địa phương hay ở trung ương, ở Kiên Giang hay Hải Phòng, Hà Nội hay TP.HCM, chú đều được người người thương mến, quý trọng. Bạn học, đồng đội cũ quý chú đã đành, mà các đồng chí của chú bây giờ cũng “mê anh Ba” lắm. Họ bảo ở chú vừa có “dũng”, vừa có “trí”, lại vừa có chữ “nhân” - mấy năm làm lãnh đạo, chú chưa từng kỷ luật ai.

Mai sau này, nhỡ có lúc nào chẳng may chú bị sa cơ lỡ vận, thằng khốn nào chỉ điểm đẩy chú ra tòa, chắc là ai cũng thương chú. Lúc ấy thể nào báo chí cũng viết về nụ cười của chú, về cái bắt tay ấm áp của chú, về chiếc cravat đỏ tuyệt đẹp của chú. Một con người hào hiệp, chí nghĩa, chí tình là thế... Có khi nhà cháu lưu vài bài báo lại làm mẫu, sau này chỉ việc chỉnh sửa vài từ, thay tên nhân vật là đăng được. Kiểu như là “Vẫn còn là anh Ba”, “18 năm sau, còn ai nhớ đến anh Ba”, hoặc chơi hẳn thế này cho máu:

“Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, thiên hạ ai người khóc chú Ba?”.

Đoan Trang (giữa) và Group 258
(Ảnh trên Blog Đoan Trang)

Mảng bài viết về Truyền thông có những tài liệu rất bổ ích về “Lịch sử blog Việt” viết cả bằng tiếng Anh lẫn tiếng Việt. Khởi đầu từ “Thời hoàng kim” của Talawas (một trang mạng được thành lập năm 2001, người sáng lập là nhà văn Phạm Thị Hoài) và những diễn biến được cập nhật đến năm 2013. Cũng trong mảng truyền thông tôi rất tâm đắc với bài “Giọt nước mắt của lề phải” với những đoạn mở đầu như sau:

“Trong suy nghĩ của nhiều người ngoài ngành, qua phản ánh của phim ảnh, nghề báo đẹp như được phủ một lớp hào quang.

Nhà báo được tiếp xúc với số lượng người cực lớn, trong đó có nhiều quan chức cao cấp, văn nghệ sĩ nổi tiếng. Nhà báo có thể “dồn” một ông cốp tới lúc phải đắng họng, có thể vạch trần những âm mưu xấu xa, có thể bá vai bá cổ một nhà văn chụp ảnh, hay ôm hoa đứng bên các nghệ sĩ. Nhà báo có xu hướng là người quảng giao, rất hiểu biết, nói chuyện hay ho, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, giữa biết đủ ngóc ngách của xã hội. Nhà báo có xu hướng thông minh, hài hước, dũng cảm, biết chụp ảnh. Nghề báo là nghề đầy vinh quang và có cả sự phiêu lưu mạo hiểm…

Đó là suy nghĩ của nhiều người ngoài ngành về nghề báo và nhà báo. Tất nhiên, không phải 100% ý kiến đánh giá đều như vậy. Ở thái cực kia, người ta lại nghĩ nhà báo Việt Nam là cái lũ đầu rỗng, nỏ mồm chém gió và nói phét, đã thế lại đểu, chỉ giỏi vặt tiền doanh nghiệp, nói tục chửi bậy kinh khiếp mà viết lách thì không bài nào sạch lỗi.

Người ta cũng có thể nghĩ nhà báo Việt Nam là một lũ cừu, cứ sểnh ra là viết sai, viết láo, viết không có lợi cho tình hình chung, làm phương hại tới quan hệ giữa Việt Nam và một quốc gia nào đó.

Người ta còn nghĩ nhà báo Việt Nam là một bọn bồi bút, bọn lưỡi gỗ tuyên truyền phản dân hại nước, ngậm miệng ăn tiền. Không đếm được có bao nhiêu lời mạt sát “lề phải” trên mạng: “não nhẵn”, “óc phẳng”, “hèn hạ”, “ngu xuẩn”, “vô lương tâm”…

Tuy nhiên, không thể tóm gọn diện mạo của cả làng báo Việt Nam trong một vài tính từ tích cực hay tiêu cực nào. Vì họ có tất cả những gương mặt ấy, khía cạnh ấy. Và dù thế nào đi nữa, trong đội ngũ các chiến sĩ trên mặt trận văn hóa-tư tưởng (cách gọi khác của từ “đàn cừu”), vẫn luôn có những nhà báo lề phải ngày đêm lặng lẽ mang những gì tốt đẹp nhất mình có thể tìm được đến cho độc giả.

Tôi kính phục họ - những nhà báo trung thực, giấu sự phản kháng vào trong thầm lặng. Thật tiếc là, dẫu vô cùng muốn viết về họ, nhưng ngay cả lúc này, tôi vẫn cứ phải giấu tên các nhà báo ấy, để họ ở yên trong trận tuyến của họ - vì lẽ mọi lời nói ám chỉ đến họ đều có thể trở thành thông tin chỉ điểm…”  

Ở một đoạn khác trong bài, người đọc mới cảm nhận cụ thể thế nào là “Giọt nước mắt của lề phải”:

Chiều 2/8/2011. Ngày ấy, ở Hà Nội diễn ra hai sự kiện: phiên xử phúc thẩm TS. Luật Cù Huy Hà Vũ và cuộc họp giao ban báo chí của Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà Nội, với nội dung thông báo kết quả điều tra vụ “đạp mặt người biểu tình”.

Cảm giác “lạnh người” khi nghe tin ấy: Bộ Công an tổ chức họp báo ngay tại Thành ủy Hà Nội (giữa trung tâm thủ đô) để thông báo kết quả điều tra, và trước đó, tin đồn ít nhiều rằng đã có những cuộc tiếp xúc, điều đình giữa công an và người biểu tình bị đạp mặt – anh Nguyễn Chí Đức. Chúng tôi đều hiểu rằng, không có lý gì mà công an tự tin đến thế. Chắc là sẽ có một diễn biến gì đó…

3 giờ chiều, từ ngoài đường, tôi gọi điện cho bạn (vừa ở cuộc họp báo ra):

- Tình hình sao rồi mày?

- Xong rồi. Họ bảo tay Đức chống đối, ngồi bệt xuống đất, nên công an phải khiêng lên xe đưa về đồn. Ông Đức cũng bảo không bị ai đánh, viết tường trình nói rõ thế rồi.

- Còn cái clip kia?

- Không xác định được có phải là giả không.

- Thế bây giờ mày định…?

- Thì về viết bài, có thế nào viết như thế chứ còn định gì. So what? (thế thì sao)

- So what cái cục cứt! – chưa bao giờ tôi thô lỗ như thế trên điện thoại di động. – Mày định thế nào? Mày muốn cứ thế mà tương vào bài à? Mày không hỏi Chí Đức lấy một câu à?

- Mày muốn gì? Có giỏi thì mày viết đi, viết xem có đăng được không?

Hai người chửi nhau một trận nảy lửa trên điện thoại.

Nguyễn Chí Đức

Như trên đã nói, Đoan Trang hiện đang ở Mỹ sau khi đã cùng hai bạn trẻ Trịnh Hữu Long và Nguyễn Anh Tuấn đến Geneva (Thụy Sĩ). Cô may mắn được University of Southern California tại Los Angeles mời ở lại để tiếp tục công trình nghiên cứu về nhân quyền từ tháng 4 đến tháng 12/2014 theo chương trình Feuchtwanger Fellowship.

Chương trình này mỗi năm chỉ chọn một nhà báo hay nhà văn hoạt động trong lãnh vực nhân quyền trên khắp thế giới. Trước Đoan Trang đã có một số người thuộc các quốc tịch khác nhau như Nigeria, Miến Điện, Pakistan, Algeria, Congo, Thổ Nhĩ Kỳ, Afghanistan và Trung Quốc. 

Những “Feuchtwanger Fellows” đều được mời về Villa Aurora, một tại Los Angeles (Mỹ) và một tại Berlin (Đức). Villa Aurora còn được gọi là nơi hội tụ các nghệ sĩ và trí thức của thế giới được thành lập từ thời Đức Quốc Xã để tiếp nhận những nạn nhân của Hitler. Kể từ năm 1995, Villa Aurora LA đã là nơi nghiên cứu của khoảng 250 khách mời và Đoan Trang là khách mới nhất trong danh sách:

Vị khách mới nhất của Villa Aurora là người Việt Nam
với thời gian lưu trú từ tháng 4 đến tháng 12/2014

Đoan Trang cho biết trong thời gian ở tại Villa Aurora cô sẽ viết một cuốn sách hướng dẫn kỹ thuật làm báo căn bản và cùng hai bạn Trịnh Hữu Long, Nguyễn Anh Tuấn viết một cuốn sách về các quyền có liên quan đến đất đai (land rights).

Có hai người cùng là nhà báo, ra đi từ Việt Nam – Huy Đức và Đoan Trang – đều đã đến Mỹ và đã tạo được tiếng vang không nhỏ khi họ nhận được sự tài trợ của các tổ chức tư nhân tại đây. Điều quan trọng là cả hai đã khẳng định họ sẽ trở về Việt Nam và Huy Đức đã về. Trước mắt, ngày hồi hương của Đoan Trang hứa hẹn vô vàn rắc rối cho nên nếu cô trở về chúng ta lại có thêm một điều để khâm phục. Hiện nay thì mọi người chỉ biết… wait and see.

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 4 – Thời quân ngũ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

1.            Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2.            Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3.            Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4.            Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5.            Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6.            Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7.            Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8.            Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9.            Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ) 


Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
--> Read more..

Thứ Sáu, 2 tháng 5, 2014

Cuộc chiến Việt Nam nhìn từ truyền thông nước ngoài

Cuộc chiến tranh tại Việt Nam ngoài những tổn thất nặng nề về sinh mạng cho cả 3 phe - Miền Bắc, Miền Nam và Hoa Kỳ - cũng là một cuộc chiến tốn nhiều giấy mực nhất với một lực lượng phóng viên chiến trường hùng hậu từ khắp nơi trên thế giới đổ về để theo dõi và đưa tin đến hàng triệu độc giả đọc báo hoặc xem truyền hình.

Tại Sài Gòn thời chiến, ngoài những phóng viên được các hãng thông tấn và các tờ báo nổi tiếng tại Mỹ gửi đến còn có sự xuất hiện của các phóng viên từ Pháp, Đức, Anh, Canada, Ý, Hà Lan, Tây Ban Nha, Argentina, Brazil và Nhật Bản. Họ là những phóng viên thuộc “quốc-tịch-thứ-ba”, một cụm từ ám chỉ các nhà báo không phải là người Việt hoặc người Mỹ.
  
Huy hiệu phóng viên chiến trường
    
Trong cái thế giới báo chí quốc tế phức tạp đó cũng có 3 hướng đưa tin chính: (1) ủng hộ cuộc chiến hay còn gọi là “diều hâu”; (2) phản chiến hay “bồ câu” và (3) trung lập.

Điển hình cho trường phái “bồ câu” là phóng viên dày dạn kinh nghiệm Homer Bigart [1] của tờ New York Times. Bigart đã đoạt giải thưởng Pulitzer về báo chí trong thời chiến tranh Triều Tiên trước khi sang nhận nhiệm sở tại Sài Gòn.

Ông đến Việt Nam năm 1962 và chỉ ở đây đúng 6 tháng trước khi bị Tổng thống Ngô Đình Diệm trục xuất vì lý do đã “phê phán chính sách gia đình trị” của Tổng thống Diệm, cố vấn Ngô Đình Nhu và vợ là Trần Lệ Xuân. Đó cũng là thời kỳ Đệ nhất Cộng hòa bị giới truyền thông quốc tế cáo buộc là đã đàn áp Phật giáo.

Một năm sau khi Bigart bị trục xuất khỏi Việt Nam, Tổng thống Diệm cùng bào đệ bị ám sát và nền Đệ nhất Cộng hòa cũng cáo chung. Bigart viết trong hồi ký sau khi nhận thức rằng cuộc chiến tranh Việt Nam là một sai lầm của nước Mỹ: “Tôi nghĩ rằng chúng ta đã quá khờ khạo gửi quân sang đấy sau khi đã trải qua kinh nghiệm tại Triều Tiên…” 

Homer Bigart (1962)

Ngoài số ít phóng viên lớn tuổi như Homer Bigart, lực lượng phóng viên nước ngoài tại Việt Nam thời chiến tranh đa số hãy còn trẻ, tuối đời chỉ độ 27 hay 28. Thế nhưng trong số họ đã dành được nhiều Giải thưởng Pulitzer về báo chí với Horst Faas (2 lần đoạt giải), Malcolm Browne, Peter Arnett, Neil Sheehan và David Halberstam.

Theo David Halberstam [2], người thay thế Homer Bigard khi ông này bị trục xuất khỏi Việt Nam, những phóng viên trẻ khi đến chiến trường Việt Nam luôn mang trong tim một tinh thần yêu nước (Mỹ) cộng thêm lòng yêu nghề (báo). Tuy nhiên, sự thật phũ phàng của chiến tranh lại phơi bầy những mâu thuẫn và xung đột khi họ tiếp xúc với thực tế.

Thái độ của đa số các phóng viên khiến giới chức quân sự, cả Việt lẫn Mỹ, có cảm giác như những người trẻ này đều có khuynh hướng “bồ câu”, hay nói một cách khác, họ “phản chiến”. Thậm chí một quan chức Mỹ còn nói thẳng thừng: “Mấy gã nhà báo chỉ mong cho Mỹ cũng như Miền Nam thua trận”.   

Sự hy sinh của các phóng viên trên chiến trường là một thực tế không thể phủ nhận. Họ thường trực tiếp dấn thân vào lửa đạn để gửi về Mỹ những bài báo nóng hổi và  sống động vì họ không tin vào các buổi thuyết trình của giới chức quân sự tại hậu phương.

Mà súng đạn vô tình đâu có phân biệt người cầm súng hay cầm bút, súng đạn cũng chẳng phân biệt giới tính nên cũng đã có nữ phóng viên chiến trường bỏ mình tại Việt Nam.

Một trong những nguyên tắc của nghề báo là không thể nào ngồi viết chuyện chiến trường trên bàn giấy tựa như người viết tiểu thuyết. Thế cho nên, đã là phóng viên chiến trường thì phải chấp nhận “sinh nghề tử nghiệp”.

Từ trái sang phải: David Halberstam (New York Times), Malcolm Browne (Associated Press) và Neil Sheehan (UPI)

Có một nghịch lý trong cuộc chiến vừa qua: phóng viên chiến trường đôi khi lại trở thành “kẻ thù” của quân đội, dù cùng chung tổ quốc. David Halberstam kể lại:

“Vào mùa thu năm 1963 có một trận đánh lớn tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long nhưng cánh phóng viên không được tháp tùng. Tôi và Neil Sheehan điện thoại cho Tướng Paul Harkins, Chỉ huy trưởng Lực lượng Quân đội Mỹ tại Việt Nam, rồi lại liên lạc với Đại sứ Henry Cabot Lodge để tìm cách tiếp cận chiến trường.  

Ngay hôm đó có buổi báo cáo tình hình chiến sự tại Tổng hành dinh MACV [Military Assistance Command, Vietnam] nhưng người thuyết trình không phải là sĩ quan cấp tá như thường lệ mà là ông tướng hai sao Dick Stillwell. Tướng Stillwell tuyên bố: “Trước khi vào buổi thuyết trình tôi có vài lời với một số phóng viên trẻ đã quấy rầy tướng Harkins và Đại sứ Lodge. Các bạn trẻ không nên lặp lại điều đó nữa, ông Đại sứ và tướng Harkins là những người bận rộn, họ không rảnh để tiếp chuyện các bạn. Các bạn cứ tiếp nhận thông tin mà chúng tôi cung cấp…”  

Tim tôi đập thình thịch khi đứng lên nói: “Xin lỗi Ngài, chúng tôi không phải là lính của Ngài. Chúng tôi là những phóng viên do New York Times, United Press, Associated Press và Time phái đến đây. Ngày hôm nay có một số phi công và xạ thủ trực thăng ra trận, tính mạng của họ và hằng triệu đô la phương tiện chiến tranh được đem ra thử thách. Người dân Mỹ có quyền được biết đến trận chiến này. Nếu Ngài thấy chúng tôi xông xáo quá mức xin cứ viết thư báo cho tòa soạn của chúng tôi và chắc chắn họ sẽ có người thay thế…”    

Đại sứ Henry Cabot Lodge và phu nhân tại Sài Gòn (1963)

Một trong những phóng viên có thời gian gắn bó với cuộc chiến tranh Việt Nam lâu nhất, phục vụ cho nhiều tờ báo và hãng thông tấn nhất là Malcolm Browne. Bộ ảnh Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng [3] đã mang lại cho Browne giải thưởng Pulitzer cao quý của ngành báo chí Hoa Kỳ năm 1963.  

Bài báo cuối cùng của Browne về chiến tranh Việt Nam mang tựa đề “Đằm thắm, Thù hận và Đau buồn đánh dấu những ngày cuối cùng của Sài Gòn” (Tenderness, Hatred and Grief Mark Saigon's Last Days) được đăng tải trên tờ New York Times ngày 6/5/1975, đúng một tuần sau khi Sài Gòn thất thủ. Bài báo được viết trên tàu di tản USS Mobile thuộc Đệ thất Hạm đội ngày 3/5/1975 với những lời mở đầu như sau:

“Tựa như một cuộc hôn nhân đổ vỡ, mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đã chấm dứt trong thù hận và nghi ngờ giữa những kỷ niệm vẫn còn phảng phất đâu đây sự đằm thắm và cảm thông từ cả hai phía”

Dưới mắt Browne, ngày cuối cùng của Sài Gòn diễn ra một cách “cay đắng” đối với những người Mỹ còn sót lại như ông giữa một thành phố “hỗn mang”, “hấp hối”… Tác giả đã dùng chữ “big nose” để ám chỉ những người nước ngoài theo cách gọi “mũi lõ, tóc quăn” của người Việt…

“Big nose” là những người Mỹ đang làm việc tại Sài Gòn dưới màu áo dân sự vì trước đó quân đội Mỹ đã rút khỏi Việt Nam sau hiệp định Paris năm 1973. Nhưng “mũi lõ” cũng có thể là những phóng viên người nước ngoài không đến từ nước Mỹ, họ vẫn còn ở lại Sài Gòn để chứng kiến những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến để gửi bài vở và hình ảnh về tòa soạn tại châu Âu, châu Mỹ và cả châu Á như Nhật Bản. Dưới mắt người Việt Nam, tất cả họ đều là người Mỹ dù thực tế họ không mang quốc tịch Mỹ.        

Hoa Kỳ rút quân theo Hiệp định Paris 1973

Browne viết: “Trong tâm khảm của hàng triệu người Việt và số ít người Mỹ có liên quan sẽ vẫn còn đó sự đau buồn pha lẫn mặc cảm đã phản bội hoặc bị phản bội… Nhiều tổ chức, công ty và cơ quan dân sự Mỹ đã đóng cửa và ra đi mà không ngó ngàng đến thân phận những nhân viên người Việt.

Nhà sản xuất phi cơ Northrop tuyên bố sẽ giúp nhân viên Việt Nam ra đi nhưng lại không áp dụng chính sách này với gia đình của họ nên cuối cùng nhân viên vẫn ở lại. Nhiều chi nhánh ngân hàng Mỹ đóng cửa, chuyển hết hồ sơ và đưa nhân viên về Mỹ để lại hàng ngàn người Việt gửi tiền không được thanh toán. Nhiều cơ quan Mỹ di tản những nhân viên người Việt được chọn lựa theo cách làm của “thế giới ngầm” (underground world) trước khi cuộc di tản chính thức được công bố…        

Ngay người Mỹ, trong số đó có các phóng viên, cũng gặp trở ngại trong việc xin di tản cho người Việt đi cùng khiến một số người phải vất vả làm đơn, phải nộp hôn thú, thậm chí phải hối lộ… Chỗ trên máy bay di tản chỉ có hạn nên người Mỹ trở thành kẻ nói dối trước con mắt những người Việt phải ở lại…”

Bài viết của Browne có đoạn kết như sau:

“Vài phút trước khi nhóm người Mỹ cuối cùng lên xe buýt vào Tân Sơn Nhất để di tản có một người bạn Việt Nam đến chia tay. Người Mỹ nước mắt rưng rưng và người bạn Việt Nam an ủi:

“Sau khi rời khỏi nơi đây có thể bạn sẽ nghe tin về những chết chóc xảy đến cho những người ở lại như tôi. Nhưng bạn sẽ không sống suốt quãng đời còn lại trong sự mặc cảm vì đã phản bội. Đó chỉ là một phần trong “định mệnh đen tối” (black fate) của Việt nam mà trong đó bạn có liên quan. Định mệnh thì lúc nào cũng không thể thay đổi được!”.  


Malcolm Browne và bức ảnh Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu

Theo tôi, một trong những bài viết về những ngày cuối cùng của Sài Gòn đầy đủ nhất và nhiều chi tiết thú vị nhất là của John Pilger [4]. Không giống như các phóng viên Mỹ, Pilger là người Úc thuộc nhóm phóng viên “quốc-tịch-thứ-ba” tham gia  cuộc chiến Việt Nam đến ngày cuối cùng và viết bài cho báo Anh. Pilger đã hai lần đạt được danh hiệu “Phóng viên của năm” (Journalist of the Year), giải thưởng hằng năm cao quý nhất của báo chí Anh.

John Pilger, phóng viên người Anh, gốc Úc

Với tựa đề “The Fall of Saigon 1975: An Eyewitness Report”, Pilger đã đưa người đọc trở về với những ngày định mệnh vào cuối tháng 4/75, khởi đầu là việc một khu vực dân cư tại trung tâm Sài Gòn bị tấn công bằng đạn rocket, thiêu hủy 150 căn nhà, 14 người chết và trên 40 người bị thương:

“Quả rocket phá hủy một khu vực gần 500 mét vuông khu dân cư chen chúc những căn nhà bằng gỗ tại Chợ Lớn và tạo nên một đám cháy thiêu rụi nhà cửa thành bình địa. Người dân đứng đó gần như bất động trước những tấm tôn cong queo còn sót lại… Vụ pháo kích đêm qua là tin sốt dẻo sau hơn 10 năm Sài Gòn không là mục tiêu tấn công, nhưng hôm nay không còn là tin nóng chỉ vài phóng viên có mặt…”

Sài Gòn bị pháo kích

Pilger viết: “Sài Gòn đang sụp đổ trước mắt, một Sài Gòn được người Mỹ hậu thuẫn, một thành phố được coi là “thủ đô tiêu dùng” nhưng chẳng hề sản xuất một mặt hàng nào ngoài chiến tranh. Trong hàng ngũ của quân đội lớn thứ tư thế giới vào thời điểm đó, binh lính đang đào ngũ với tốc độ cả nghìn người trong một ngày…”

Hai máy bay C-130 Hercules từ căn cứ không quân Clark tại Phi Luật Tân đang bay phía trên sân bay Tân Sơn Nhất để chuẩn bị đón người di tản nhưng cuối cùng lại nhân lệnh không được hạ cánh vì tin tình báo cho biết có sự hiện diện của 2 trung đội địch.

Tướng Homar Smith báo cáo: “Có khoảng 3.000 thường dân rất lo lắng đang tập trung tại phi trường Tân Sơn Nhất. Tình hình có vẻ như đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát…”. Như vậy là kế hoạch di tản bằng máy bay đã bị phá sản. Chỉ còn lại phương án dùng trực thăng.  

Thủy quân lục chiến Mỹ bảo vệ Văn phòng Tùy viên Quốc phòng (DAO) trong khu vực Tân Sơn Nhất

Pilger tả lại quang cảnh đường phố Sài Gòn: “Lệnh giới nghiêm 24/24 giờ được áp dụng, nhưng vẫn có người trên đường phố trong đó có cả lính của Sư đoàn 18 thuộc vùng 4 chiến thuật. Tôi nghĩ họ nổi giận khi thấy người Mỹ sắp ra đi. Họ xuất hiện ở trung tâm thành phố để nhìn những người nước ngoài, hoặc đe doạ hoặc bắn chỉ thiên để giải toả nỗi tức giận.

Công trường Lam Sơn [gần khách sạn Caravelle] trống trải, chỉ có vài người lính đi lại với vẻ chán chường. Một người trong số này đi nhanh về hướng đại lộ Tự Do, thét vào mặt tôi. Hình như anh ta say. Anh ta lấy súng lục, ngắm bắn, chọn mục tiêu và bóp cò. Viên đạn sượt qua đầu trong khi tôi chạy…”

Những người nước ngoài, kể cả những người thuộc “quốc-tịch-thứ-ba” đã được Tòa Đại Sứ Mỹ phát hành một cuốn sách nhỏ mang tên SAFE, viết tắt từ cụm từ "Standard Instruction and Advice to Civilians in an Emergency”, tạm dịch là “Tiêu chuẩn Chỉ dẫn và Lời khuyên cho thường dân trong trường hợp khẩn cấp".  

Pilger bổ xung nhiều chi tiết hơn về SAFE: “Cuốn sách nhỏ có in bản đồ Sài Gòn và ghi rõ “những khu vực tập trung để trực thăng có thể đón”. Còn có một trang đính kèm với nhắc nhở: “Chú ý đến mật hiệu di tản và không tiết lộ cho những người khác”. Khi có lệnh di tản, mật hiệu sẽ được truyền trên Đài phát thanh của Quân đội Hoa Kỳ. Nguyên văn như sau: NHIỆT ĐỘ TẠI SÀI GÒN LÀ 112 ĐỘ VÀ ĐANG TĂNG. TIẾP SAU ĐÂY LÀ GIAI ĐIỆU BÀI HÁT "I'M DREAMING OF A WHITE CHRISTMAS".   

Như đã nói ở phần trên, những phóng viên thuộc “quốc-tịch-thứ-ba” có người không bết hoặc chưa hề nghe bài hát nổi tiếng của Mỹ từ thập niên 1940, “I’m dreaming of a white Christmas” do Bing Crosby trình bày. Họ cuống quýt nhờ các đồng nghiệp người Mỹ hát thử để nhận diện bài hát khi được phát trên đài Quân đội Mỹ! (xem video clip về bài hát này trên YouTube tại: https://www.youtube.com/watch?v=BOrwX11CbsY)

Thế nhưng Pilger cho biết, anh hoàn toàn không nghe thấy bản tin thời tiết Sài Gòn và cũng chẳng được thưởng thức giọng hát trầm ấm của Bing Crosby rên rỉ về việc mơ thấy một Giáng sinh trắng trên radio như đã thông báo.

Trước Tòa Đại Sứ Mỹ (Ảnh chụp ngày 22/4/1975)

Tình hình ngày càng rối ren, bất ổn… người Việt tìm đường rời khỏi đất nước khiến Đại sứ Mỹ Graham Martin phải xuất hiện trên truyền hình với lời cam kết long trọng: “Nước Mỹ sẽ không rút khỏi Việt Nam”. Ông tuyên bố:

"Tôi, Đại sứ Mỹ, sẽ không chạy trốn lúc nửa đêm. Bất kỳ ai cũng có thể tới nhà tôi và chứng kiến tôi chưa sắp xếp hành lý" (I, the American Ambassador, am not going to run away in the middle of the night. Any of you can come to my home and see for yourselves that I have not packed my bags).

Pilger viết về ông Martin: “Đại sứ Mỹ là một người kiên quyết và nóng nảy. Ông ta không khoẻ lắm, má hóp và nước da sạm vì bị viêm phổi từ nhiều tháng nay; bài phát biểu đôi khi thều thào do ảnh hưởng của những viên thuốc mà nhà ngoại giao phải điều trị. Ông hút thuốc lá liên tục và những cuộc nói chuyện với ông thường bị gián đoạn bởi những tràng ho dài”.

Theo Pilger, Đại sứ Martin vẫn khẳng định với Washington rằng Việt Nam có thể tồn tại với "vành đai thép" (iron ring) bao quanh Sài Gòn và những máy bay B-52 lúc nào cũng sẵn sàng yểm trợ. Tuy nhiên, trong thâm tâm ông Đại sứ luôn giữ trong lòng một vết thương khó phai khi mất đi người con trai tại vùng đất này 9 năm về trước.   

Sau cuộc họp giữa Martin và các quan chức vào lúc 6 giờ sáng ngày 29/4/1975 có nhiều ý kiến bất đồng. Tất cả mọi người, trừ ông Đại sứ, đều có ý kiến phải tiến hành kế hoạch di tản ngay lập tức. Martin lại không đồng ý, ông tuyên bố sẽ không “chạy trốn” và thậm chí sẽ tự lái xe tới sân bay Tân Sơn Nhất để đánh giá tình hình.

Ông Martin có lý do để lạc quan: Ngoại trưởng Henry Kissinger cho biết Đại sứ Nga tại Washington, Anatoly Dobrynin, hứa sẽ chuyển thông điệp muốn đàm phán của VNCH tới Hà Nội.

Trong khuôn viên Sứ quán Mỹ có một cây me già trồng từ thời Pháp. Đại sứ Martin thường nói với những người thân cận rằng ông coi cây me này là hình ảnh biểu tượng của nước Mỹ tại Việt Nam. Một khi cây me đổ, uy tín và danh dự của Hoa Kỳ cũng đổ theo (!). Nhưng sau khi cuộc họp kết thúc, phụ trách CIA tại Nam Việt Nam, Tom Polgar, ra lệnh chặt cây me mà không xin phép ông Martin để chuẩn bị cho kế hoạch di tản.

Ngoài bãi đáp trên sân thượng của tòa đại sứ dành cho loại trực thăng nhỏ Huey, khoảng không đủ rộng để các loại trực thăng Chinook và Jolly Green Giant lên xuống là khu vực bể bơi. Chỉ nơi đây mới có thể thực hiện kế hoạch di tản theo “Option Four” (Phương án 4: di tản bằng trực thăng). Để chuẩn bị cho phương án này, cây me già sẽ bị đốn.     

Hồ bơi trong khuôn viên Tòa Đại Sứ có cả vũ khí cá nhân của người chờ di tản

10g43: Lệnh tiến hành “Option Four” được đưa ra. Tuy nhiên, Đại sứ Martin vẫn tin rằng “còn thời gian” để đàm phán để có một “giải pháp danh dự”. Một đám đông chen lấn ở trước cửa sứ quán Mỹ, có người còn cố trèo tường để vào bên trong. Một số người có mặt ở đây chỉ vì tò mò; một số khác vừa ôm chặt cánh cổng sắt vừa nài nỉ thủy quân lục chiến Mỹ. Họ đưa ra giấy tờ hoặc thư từ giới thiệu của các quan chức Mỹ.

Đám đông trèo tường để vào Tòa Đại Sứ Mỹ

Pilger thêm chi tiết: “Một ông già có lá thư của một Trung uý người Mỹ. Trước đây ông đã làm tại một quán bar tại câu lạc bộ sĩ quan không quân tại Pleiku với nhiệm vụ rửa bát. Lá thư đề ngày 5/6/1967 ghi: "Ông Nhạ, người mang bức thư này, đã trung thành phục vụ sự nghiệp tự do của Việt Nam Cộng hoà".

Tục ngữ Việt Nam có câu "Cháy nhà ra mặt chuột". Ông Phan Quang Đán, cựu Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng đặc trách An sinh Xã hội và Tái định cư Người tị nạn, đi cùng vợ vào sứ quán. Cùng với họ là những người thân, số lượng tương đương một trung đội.

Trong số những người sắp di tản còn có các thanh niên ở độ tuổi quân dịch nhưng gia đình họ khá giả nên hối lộ những khoản tiền lớn để chỉ có tên trong danh sách của một đơn vị nào đó, nhưng chưa bao giờ ra chiến trường. Họ có cuộc sống phong lưu ở Sài Gòn, uống cà phê, cưỡi Honda… trong khi con trai nhà nghèo phải tham gia quân đội bỏ mạng ở Quảng Trị, An Lộc...

Tướng Đặng Văn Quang, một trong những cánh tay đắc lực của Tổng thống Thiệu, cũng có mặt trong khuôn viên sứ quán với 3 chiếc vali Samsonite để chờ trực thăng rời khỏi Việt Nam. Pilger mô tả “Tướng Béo” là một trong những vị tướng giàu nhất vì tham nhũng và buôn lậu. Sau này, cuộc đời lưu vong của Tướng Quang cũng gặp nhiều trắc trở, ông định cư tại Mỹ rồi lại sống tại Canada và cuối cùng qua đời tại Hoa Kỳ năm 2011.

Tâm trạng những người Mỹ trong sứ quán, theo lời kể của Pilger, lại vui như trong ngày hội. Họ ngồi trên bãi cỏ quanh bể bơi với rượu champagne đặt trong các bình đá được lấy từ sứ quán.  

Pilger có dịp nói chuyện với Warren Parker trên sân Tòa Đại Sứ, ông là Lãnh sự Mỹ tại Mỹ Tho. Parker nói với giọng tiểu bang Georgia: “Nếu có khoảnh khắc của sự thật thì với tôi đó là hôm nay. Những năm qua tôi ở đây, làm việc cho nước tôi và đất nước này. Và hôm nay tất cả những gì tôi thấy là chúng ta đã chia rẽ người tốt khỏi người xấu... và chúng ta chỉ thu về toàn người xấu".

Thủy quân Lục chiến trên tàu Hancock thuộc Đệ thất Hạm đội chờ lịnh để bay đến Sài Gòn bảo vệ cuộc di tản

3g15 chiều 29/4/1975: Chiếc Cadillac chở Đại sứ Martin không thể rời cổng phụ sứ quán. Chiếc xe dừng lại và ông tuyên bố: “Một lần nữa, tôi sẽ đi bộ về nhà của mình, tôi sẽ đi bộ một cách thoải mái trong thành phố này. Tôi sẽ rời Việt Nam khi Tổng thống bảo tôi phải làm như vậy”.

Graham Martin vượt qua đám đông và đi bộ một đoạn ngắn về tư dinh. Một tiếng rưỡi sau, ông trở lại sứ quán với chú chó xù Nitnoy và một người đàn ông Việt Nam giúp việc. Pilger kể tiếp những diễn biến trong Tòa Đại Sứ:    

“Khi chiếc trực thăng Chinook đầu tiên hạ cánh, cánh quạt va phải một ngọn cây và tiếng các cành cây rơi xuống tựa như một cuộc chạm súng… Sức gió của cánh quạt cũng khiến một số giấy tờ và tiền đô la bay tứ tung…”  

Rất nhiều tài liệu mật của sứ quán đã được tiêu huỷ cộng với rất nhiều tiền, những tờ tiền giấy 10, 50 và 100 đô la, cũng cùng chung số phận. Pilger tiết lộ: “Một quan chức trong sứ quán cho biết hơn 5 triệu đô la đã bị đốt, tất cả các két sắt trong sứ quán đều trống rỗng nhưng vẫn được khóa cẩn thận… “để đánh lừa ‘kẻ xấu’ khi chúng tôi ra đi”.

Nguyên văn của câu cuối: “so as to fool the gooks when we've gone”, chữ “gooks” là tiếng lóng của người Mỹ dùng để miệt thị người châu Á nên chúng tôi tạm dịch là “kẻ xấu”.  Thủy quân lục chiến phục vụ tại Phi Luật Tân hồi đầu thế kỷ 20 đã sử dụng từ này để chỉ người Philippines. Thuật ngữ này tiếp tục được sử dụng bởi lính Mỹ tại Việt Nam khi có ý xúc phạm đến người bản xứ.  

Trực thăng Jolly Green Giant bốc người di tản từ khuôn viên Tòa Đại Sứ

Trực thăng Chinook, có hình dáng như một quả chuối, bình thường có thể chở 50 người nhưng hôm nay tải trọng lên đến 70 người di tản nhưng các phi công đã điều khiển một cách an toàn ra Đệ thất Hạm đội đang chờ ngoài Biển Đông.

Trực thăng Chinook trên Đệ thất Hạm đội
 
2g30 sáng 30/4/1975: Kissinger gọi điện cho Martin và yêu cầu ông kết thúc kế hoạch di tản lúc 3g45 sáng. Nửa tiếng sau, Martin xuất hiện cùng một cặp da, một túi xách các tài liệu và lá cờ Sao & Sọc của Hoa Kỳ. Ông im lặng đi lên tầng 6, nơi một chiếc trực thăng đang đợi.

Liên lạc giữa sứ quán và trực thăng di tản ghi lại: “Lady Ace 09 đang ở trên không cùng Code Two”: “Lady Ace 09” là ám số của chiếc trực thăng chở Đại sứ Graham Martin, còn ông mang bí danh “Code Two”. Đó cũng lời xác nhận bán chính thức về việc Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam. 

Những người lính Thủy quân Lục chiến cuối cùng rút lên sân thượng, họ bắn lựu đang cay xuống cầu thang trong tâm trạng hoang mang của những người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam…

Ngày 2/5/1975 vị Đại sứ Hoa Kỳ 61 tuổi với vẻ mệt mỏi đã tuyên bố ngắn gọn với các phóng viên có mặt trên Đệ thất Hạm đội: “Với tư cách một quốc gia, nếu chúng ta đã làm những gì mà tôi nghĩ là chúng ta đã nói thì chúng ta nên làm – nếu chúng ta giữ những cam kết đó thì chúng ta đã không phải di tản”. 

Đại sứ Graham Martin gặp các phóng viên có mặt trên Đệ thất Hạm đội ngày 2/5/1975

Theo những tài liệu còn lưu giữ tại Trung tâm Văn khố Việt Nam thuộc Texas Tech University, cuộc di tản được tiến hành tại hai địa điểm chính: Văn phòng Tùy viên Quân sự Mỹ (DAO) tại phi trường Tân Sơn Nhất và trên khuôn viên Tòa Đại Sứ Mỹ.

Tại DAO, cuộc di tản kéo dài từ 4g30 chiều đến 8g tối ngày 29/5/1975. Tại Tòa Đại Sứ Mỹ, kế hoạch ban đầu là chỉ di tản những nhân viên trực thuộc nhưng số người Việt kéo đến đây lên tới khoảng 2.000 người trong khi số chuyến bay đến từ Đệ thất Hạm đội chỉ có hạn. Cuộc di tản để lại hơn 400 người Việt tại Tòa Đại sứ. Chuyến bay cuối cùng rời khỏi Sài Gòn vào lúc 7g53 sáng 30/4/1975 để bốc toán Thủy quân Lục chiến bảo vệ sứ quán.

Tổng kết có hơn 130.000 người di tản khỏi Sài Gòn và riêng trong ngày cuối cùng có 662 chuyến bay đưa người di tản ra Hạm đội 7 neo đậu ngoài Biển Đông, cách Sài Gòn 60 dặm.

Kế hoạch di tản của Hoa Kỳ bị thiệt hại 3 chiếc trực thăng và 2 nhân viên phi hành. Một kết quả đáng tự hào của lực lượng phụ trách di tản nhưng cũng là một đoạn kết buồn cho cuộc hôn nhân Việt – Mỹ như Malcolm Browne đã từng ví von!   

***

Chú thích:

[1] Homer William Bigart (1907–1991) là phóng viên của New York Herald Tribune từ năm 1929 đến năm 1955 và sau đó chuyển sang tờ New York Times cho đến khi về hưu vào năm 1972. Ông được coi là “phóng viên của mọi phóng viên” và là một tấm gương sáng cho các phóng viên thế hệ kế tiếp.

[2] David Halberstam (1934–2007) là một nhà báo và là tác giả nổi tiếng về đề tài Chiến tranh Việt Nam, ông còn viết về chính trị, lịch sử, kinh doanh, truyền thông, văn hóa Mỹ, và sau cùng là thể thao.

Ông tốt nghiệp chuyên ngành báo chí tại trường Đại học Harvard năm 1955. Từ đó, ông theo đuổi nghề báo và viết sách cho đến khi ông mất năm 2007 do tai nạn giao thông.

[3] Về Malcolm Browne, xem thêm bài viết “Malcolm Browne & bộ ảnh Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu” tại http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/11/malcolm-browne-bo-anh-hoa-thuong-thich.html

[4] John Richard Pilger sinh năm 1939 tại Úc và sinh sống tại Luân Đôn từ năm 1962, ông cộng tác với tờ Daily Mirror và tạp chí New Statesman. Ngoài công việc của một phóng viên chiến trường, Pilger và còn là người làm hơn 50 phim thời sự nổi tiếng với khuynh hướng chống lại chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và Anh quốc. Ông cũng là người phản đối chính sách của chính phủ Úc đối với thổ dân tại đây. Ngoài những phim về Việt Nam, ông còn thực hiện những bộ phim thời dự về Cambodia, Đông Timor.

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 4 – Thời quân ngũ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

1.            Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2.            Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3.            Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4.            Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5.            Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6.            Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7.            Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8.            Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9.            Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ) 

Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!


--> Read more..

Popular posts