Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2024

Dòng nhạc Pháp bất hủ ngày xưa

Tôi còn nhớ, ngày xưa Cà Phê Tùng ở Đà Lạt vào ngày Thứ Năm hàng tuần chơi toàn nhạc Pháp để khách có thể thưởng thức những bài hát do các ca sĩ người Pháp trình bày. Điều này chứng tỏ số người hâm mộ nhạc Pháp chiếm một thành phần đáng kể trong số người yêu thích nhạc ngoại tại Việt Nam nói chung và thành phố Đà Lạt nói riêng.

Thành phố Sương Mù có nhiều cơ sở văn hoá mang đậm sắc thái Pháp như Lycée Yersin, Petit Lycée, Adran hay Couvent des Oiseaux... nên cũng là điều dễ hiểu khi Cà Phê Tùng dành trọn một ngày cho nhạc Pháp.

 

* Video clip "Songs in French from the 60s":

https://www.youtube.com/watch?v=O1aD1pt9pUk

 

Nói đến nhạc Pháp, người ta nghĩ ngay đến Françoise Hardy (1944-2024) với bản nhạc bất hủ “Tous les Garcons et Les Filles” đã một thời làm rung động trái tim người nghe với những khắc khoải, cô đơn của tuổi đôi mươi trên đường đi tìm một người yêu trong mộng.

 

Françoise Hardy khi còn trẻ

 

Bài hát mở đầu bằng cảnh trai gái đồng trang lứa từng cặp đi bên nhau trên đường phố thật hạnh phúc. Mắt trong mắt, tay trong tay… không hề nghĩ đến ngày mai. Chỉ một mình người hát với tâm hồn nặng chĩu, cô đơn vì chẳng có người yêu:

 

“Tous les garçons et les filles de mon âge

Se promènent dans la rue deux par deux

Tous les garçons et les filles de mon âge

Savent bien ce que c'est d'être heureux.

 

“Et les yeux dans les yeux et la main dans la main

Ils s'en vont amoureux sans peur du lendemain

Oui mais moi, je vais seule par les rues, l'âme en peine

Oui mais moi, je vais seule, car personne ne m'aime…”

 

Tuy nhiên, đoạn kết của bài hát lại dẫn đến niền lạc quan trong hy vọng một ngày nào đó tâm hồn không còn nặng chĩu… đó là ngày tìm thấy người yêu:

 

“Le jour où je n'aurai plus du tout l'âme en peine

Le jour où moi aussi j'aurai quelqu'un qui m'aime.”

 

Có thể nói, Françoise Hardy là “viên ngọc quý” của nước Pháp và của cả thế giới. Bà viết bài “Tous les Garcons et Les Filles” năm 1962, khi mới vứa 19 tuổi, hoàn toàn không trải qua một trường lớp âm nhạc nào.

Với giọng ca trầm buồn, tiếng hát của Françoise Hardy đã đi sâu vào lòng những người trẻ đang bơ vơ và hoang mang trước ngưỡng cửa của tình yêu. Bản thân Hardy cũng đã phải trải qua thời niên thiếu sống thiếu bóng cha bên người mẹ đơn thân trước khi thành công trong lãnh vực âm nhạc.

Kể từ năm 1968 Françoise Hardy còn bước sang lãnh vực điện ảnh và người mẫu. Với sự hỗ trợ của người chồng đầu tiên, nhiếp ảnh gia Jean-Marie Perier, bà đã trở thành một trong những mẫu người điển hình của phong cách Pháp, một hình tượng nổi bật trong kiểu cách thời trang với mái tóc vàng quyến rũ đi kèm một khuôn mặt phảng phất một nét buồn cố hữu.

Năm 2004, Hardy phát hiện mình bị ung thư, đến năm 2016 bà đã có lúc bị hôn mê tưởng chừng như qua đời. Cuối cùng, vào ngày 11/6/2024 Françoise Hardy đã từ giã cõi đời sau một thời gian dài kiên trì chạy chữa.

Ngoài tác phẩm đầu tay “Tous les Garcons et Les Filles” Françoise Hardy còn để lại cho những người yêu nhạc những ca khúc đáng nhớ như “Comment te dire adieu”, “Le temps de l’amour”, “Message personnel”…

 

* Video clip “Tous les Garcons et Les Filles” - Françoise Hardy

https://www.youtube.com/watch?v=XPkBMqehr5k

 

Françoise Hardy lúc về già

 

Cùng sinh năm 1944 như Françoise Hardy, Sylvie Vartan (tên khai sinh là Sylvie Georges Vartanian) ra chào đời tại Iskrets, Bulgaria. Cả hai đều là ca sĩ và diễn viên nổi tiếng của Pháp nhưng mỗi người đều sở trường một dòng nhạc khác nhau.

Trong khi Françoise Hardy thiên về loại nhạc trầm buồn thì Sylvie Vartan lại theo một dòng nhạc có tiết tấu nhanh, nhí nhảnh. Nhạc của Sylvie Vartan mang âm hưởng của rock'n'roll, pop, disco, soul, jazz… nói chung là theo trào lưu của nhạc trẻ thuộc loại “yé-yé”.

Ngoài ra, Sylvie còn kết hợp với người chồng là Johnny Hallyday, một ca sĩ nhạc rock, để tạo thành một cặp diễn viên gây bão trên sân khấu mỗi khi xuất hiện.

Đối với một người mà ban đầu không muốn chọn nghề ca hát, Sylvie Vartan lại là một trong những ca sĩ Pháp có sự nghiệp bền vững khi bước vào nghề một cách bất đắc dĩ vào năm 1961.

Bố cô là tùy viên sứ quán Pháp tại Sofia, còn ông nội là giám đốc công ty điện lực quốc gia. Gia đình cô chạy trốn chế độ cộng sản sang Pháp định cư năm 1952, Sylvie lúc đó mới lên 8.

Thời còn nhỏ, cô bé chăm chỉ học giỏi, nhưng thật ra lại nuôi mộng trở thành diễn viên điện ảnh, chứ không phải là ca sĩ. Cho đến một ngày ca sĩ Frankie Jordan chuẩn bị vào phòng thu để ghi âm một bản song ca thì vào giờ chót cô ca sĩ hát chung lại không đến. Không còn ai khác để thay thế, Sylvie “bị” đẩy từ nhà đến phòng ghi âm.

Tưởng chừng hát thử cho vui, nào ngờ lại thành đĩa thật. Nhờ ca khúc này mà tên tuổi của Sylvie được lăng xê vào năm 1961. Từ năm 1963, Sylvie Vartan cùng với France Gall và Françoise Hardy trở thành những gương mặt tiêu biểu của dòng nhạc trẻ những năm 60 tại Pháp.

Sự nghịêp của cô đạt đến tột đỉnh vào những năm 68-69 và vẫn tiếp tục sáng chói qua bao thập niên nhờ biết đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người nghe và nhất là thích nghi với các phong trào âm nhạc thời thượng từ nhạc kích động disco cho đến nhạc pop những năm 80 và 90.

 

Sylvie Vartan khi còn trẻ

 

Trong suốt sự nghiệp Sylvie Vartan đã ghi âm đến 38 tập nhạc, bán hơn 60 triệu album trên thế giới. Trong số các nhạc phẩm đó, “La Plus Belle Pour Aller Danser” được người hâm mộ Việt Nam ưa thích cho nên đã có rất nhiều ca sĩ (như Thanh Lan) trình bày tại các đại nhạc hội trên sân khấu Sài Gòn.

 

“Ce soir, je serai la plus belle pour aller danser, danser

Pour mieux évincer toutes celles que tu as aimées, aimées

Ce soir je serai la plus tendre quand tu me diras, diras

Tous les mots que je veux entendre murmurer par toi, par toi

 

“Je fonde l'espoir que la robe que j'ai voulue

Et que j'ai cousue point par point

Sera chiffonnée et les cheveux que j'ai coiffés

Décoiffés par tes mains…”

 

* Video clip “La Plus Belle Pour Aller Danser” - Sylvie Vartan

https://www.youtube.com/watch?v=r0XnzQAEOyU

 

* Video clip “Le feu” - Johnny Hallyday, Sylvie Vartan

https://www.youtube.com/watch?v=_AoqoTg-dkg

 

Sylvie Vartan lúc về già

 

Dalida (tên thật là Iolanda Cristina Gigliotti) là một ca sĩ người Pháp, sinh ra tại Ai Cập năm 1933 trong một gia đình gốc Ý, đó cũng là lý do tại sao Dalida nhận được danh hiệu Hoa hậu Ai Cập năm 1954!

Tổng cộng hơn 125 triệu đĩa hát của Dalida đã được bán ra trên toàn thế giới, trong đó “Bambino” đã trở thành “đĩa bạch kim” vào năm 1964 và “đĩa kim cương” năm 1981.

Cô được coi là một trong những nữ ca sĩ hàng đầu của Pháp với biệt tài biết nhiều thứ tiếng và thành công trong lãnh vực ca hát, kể cả điện ảnh, suốt 31 năm tại Pháp. Đó là một sự hành công tuyệt vời trên bước đường nghệ thuật… nhưng Dalida lại gặp nhiều khủng hoảng trong đời sống riêng tư, cô đã tự tử tại Paris và qua đời vào tuổi 54!.

Những người thân của Dalida lần lượt tự sát. Người tình đầu của cô, Luigi Tenco, tự tử năm 1967, khiến cô bị khủng hoảng tinh thần dẫn đến lần đầu tiên tự sát nhưng bất thành. Năm 1970, đến lượt Lucien Morisse, người chồng và người quản lý của Dalida cũng tự tìm đến cái chết. Năm 1983 Richard Chanfray, một người bạn thân khác của Dalida, cũng tự vẫn.

Sau khi có thai với một sinh viên người người Ý tại Roma, Dalida đã quyết định nạo thai nhưng cuộc phẫu thuật đã gặp trục trặc dẫn đến việc cô mất hoàn toàn khả năng làm mẹ.

Ngày 2/5/1987, Dalida đã tự tử bằng thuốc an thần và qua đời tại nhà riêng thuộc khu Montmartre, Paris, với lời trăng trối: “Tôi không thể chịu đựng cuộc sống thêm nữa, hãy tha lỗi cho tôi” (La vie m'est insupportable, pardonnez-moi).

 

Dalida, 1961

 

Ngoài bài hát bất hủ "Bambino" còn phải kể đến "Besame Mucho", "Paroles... Paroles...", "Le temps des fleurs", "Laissez-moi danser""Mourir sur scène".

Bài “Bambino” (gốc tiếng Ý là Guaglione) vốn trước đó định dành cho ngôi sao của dòng nhạc Latinh là Gloria Lasso. Dalida thu “Bambino” chỉ trong một đêm và tác phẩm thành công rực rỡ khi đĩa hát bán được nửa triệu bản, đứng trong bảng xếp hạng hơn 1 năm, trong đó có 39 tuần đứng thứ nhất. Đây cũng là “đĩa vàng” đầu tiên của Dalida.

 

“Les yeux battus

La mine triste et les joues blemes

Tu ne dors plus

Tu n'es que l'ombre de toi-meme

Seul dans la rue

Tu rodes comme une ame en peine

Et tous les soirs sous sa fenetre on peut te voir…”

 

* Theo tạp chí Kịch Ảnh (số 18, phát hành ngày 30/6/1962) Dalida đã có lần đến Việt Nam, đó là ngày 29/6/1962. Cô đến Sài Gòn trong khuôn khổ một buổi gặp mặt với tính cách “nghệ sĩ gặp nghệ sĩ”.

Ban biên tập báo Kịch ảnh với nhà báo Quốc Phong củng nhà văn Mai Thảo và đạo diễn Hoàng Anh Tuấn đã có mặt tại Khách sạn Caravelle. Nhà báo Quốc Phong đặt câu hỏi: “Dalida cho biết bí mật thành công của cô, để tôi nói lại cho các ca sĩ VN nghe”.

Dalida trả lời:

“Bí quyết gồm 2 điểm: luyện giọng và gặp dịp may. Con số đem lại may mắn cho tôi là 421… Tháng 4/1956, tôi đến hát thử cho Giám đốc Nhà hát Olympia, Bruno Coquatrix, lúc đó, Eddie Barclay (nhà sản xuất băng đĩa) đang nhậu nhẹt trong một quán cà phê gần đó.

“Bruno lôi họ đến nghe tôi hát cho vui nhưng họ không chịu. Cuối cùng, Bruno đánh cá nếu họ thua trong một ván gieo xúc xắc “kiểu 421” thì phải tới nghe; bằng không, Bruno sẽ đãi thêm một chầu rượu nữa. Rút cuộc Bruno thắng!

“Cả hai phải đến nghe, khi tôi ca bản “L’Étranger au paradis”, họ chịu liền. Thế là một “vị” chọn bài hát, còn một “vị” thâu đĩa. Nhờ những đĩa hát của Eddie Barclay mà tôi nổi tiếng”.

 

* Video clip “Bambino” – Dalida

https://www.youtube.com/watch?v=tf-cDKuGsSA

 

Dalida ngồi xe bò tại Gò Vấp, Sài Gòn

 

*** 

--> Read more..

Thứ Hai, 7 tháng 10, 2024

Dòng nhạc ngoại bất hủ của ngày xưa

Năm 1963, nhà soạn nhạc Paul Simon khi đó mới 21 tuổi đời đã trình làng một ca khúc đầu tay với một tựa đề độc đáo “The Sound of Silence”, tạm dịch là “Âm thanh của sự câm lặng”:

 

“Hello darkness, my old friend

I've come to talk with you again

Because a vision softly creeping

Left its seeds while I was sleeping

And the vision that was planted in my brain

Still remains

Within the sound of silence…”

 

Tháng 3/1964 bản nhạc được Simon và Garfunkel ghi âm tại Columbia Studios, New York City. Tuy nhiên, đĩa hát ban đầu đã không được người nghe chú ý và phải đợi đến khi các đài phát thanh tại Boston và Florida tung ra bản chỉnh sửa với các thiết bị điện tử và trống để biến bản nhạc từ thể loại dân ca sang folk-rock vào tháng 9/1965 mới trở nên nổi tiếng.

“The Sound of Silence” đã leo lên thứ bậc ngày càng cao trên danh sách của tạp chí Billboard, cạnh tranh với nhóm “The Beatles” vào năm 1966. Trong suốt 14 tuần, đĩa hát đã chiếm vị trí hàng đầu trên Billboard.

Không những thế, “The Sound of Silence” cũng đã vượt lên trong danh sách “top 10” tại các nước Úc, Áo, Đức, Nhật và Hoà Lan.

Bài hát nói về sự kiện Tổng thống Mỹ John F. Kennedy bị ám sát vào 22/11/1963, để lên án con người trở thành nô lệ của vật chất. Họ trở nên vô cảm, không biết quan tâm nhau, cảm thông lẫn nhau. Họ không dám nói tiếng nói riêng của mình mà chỉ dám sống trong câm lặng.

 

* Video clip: Simon & Garfunkel - The Sound of Silence

https://www.youtube.com/watch?v=NAEppFUWLfc

 

Simon & Garfunkel - The sound of silence

 

“The Beatles” là một ban nhạc rock người Anh được thành lập tại Liverpool vào năm 1960, bao gồm John Lennon, Paul McCartney, George Harrison và Ringo Starr.

 

* Paul McCartney giữ giọng hát chính và chơi piano, maracas, piano điện, guitar bass

* John Lennon: hát bè

* George Harrison: chơi guitar chính, hát bè

* Ringo Starr: trống

 

“Bộ tứ” được coi là ban nhạc có ảnh hưởng nhất mọi thời đại và là một phần không thể thiếu trong sự phát triển của văn hóa phản kháng của những năm 1960.

"Let It Be" là bài hát được phát hành vào ngày 6/3/1970 dưới dạng đĩa đơn và cũng là ca khúc chủ đề của album “Let It Be”. Bài hát được Paul McCartney sáng tác và trình bày cùng John Lennon. Bài hát có đoạn mở đầu mang âm hưởng tôn giáo:

 

“When I find myself in times of trouble, Mother Mary comes to me

Speaking words of wisdom, let it be

And in my hour of darkness she is standing right in front of me

Speaking words of wisdom, let it be…”

 

Vào thời điểm xuất hiện, bản nhạc có vị trí thứ 6 trên “Billboard Hot 100” và cuối cùng đạt đến vị trí cao nhất. Đây cũng là đĩa đơn cuối cùng của “The Beatles” trước khi McCartney tuyên bố rời khỏi ban nhạc!

McCartney cho biết ông nảy ra ý tưởng về "Let It Be" sau khi mơ thấy mẹ mình, Mary Patricia McCartney, qua đời vì bệnh ung thư vào năm 1956, lúc đó ông mới mười bốn tuổi.

Trong một cuộc phỏng vấn McCartney đã nói về giấc mơ mà mẹ ông đã kể với ông… "mọi chuyện sẽ ổn thôi, cứ để mọi chuyện diễn ra như vậy." Khi được hỏi liệu cụm từ "Mother Mary" trong bài hát có ám chỉ đến Đức Mẹ Đồng Trinh Mary hay không, McCartney trả lời rằng người nghe có thể hiểu bài hát theo bất kỳ cách nào họ thích!

 

* Video clip: The Beatles – Let it be:

https://www.youtube.com/watch?v=u6T5C-jzSH0

 

Ban nhạc “The Beatles”

 

Cũng xuất xứ từ Anh Quốc, ban nhạc “The Shadows” đã một thời “làm mưa làm gió” trên sân khấu ca nhạc thế giới từ thập niên 1950 với 4 thành viên chơi guitar điện Fender bao gồm nhiều thể loại nhạc pop, rock, surf rock và ballad pha chút jazz. Ban nhạc gồm:

 

* Hank B. Marvin: guitar solo

* Bruce Welch: guitar đệm

* Jet Harris: guitar bass

* Tony Meehan: chơi trống

 

“The Shadows” nổi tiếng với những tác phẩm như “Apache”, “Man of Mystery”… Bên cạnh đó còn có Cliff Richard đảm nhận việc ca hát như trong phim “The Young Ones”. Cliff Richard và nhóm “The Shadows” từng thống trị các bảng xếp hạng ca khúc ăn khách nhất nước Anh giai đoạn cuối thập kỷ 1950 và 1960.

 

* Video clip: The Shadows - Apache (1960)

https://www.youtube.com/watch?v=7TwULx_wDiI

 

* Video clip: Cliff Richard - The Young Ones

https://www.youtube.com/watch?v=BxNohANhJiA


Ban nhạc “The Shadows”


Thập niên 1960 cũng đã xuất hiện tại Việt Nam những ban nhạc trẻ chơi theo phong cách “The Shadows” với đàn Fender. Phong trào nhạc trẻ đã lan tới Đà Lạt, nơi tôi đang học những năm cuối cấp 2 tại trường Trần Hưng Đạo.

Ba người bạn chúng tôi đã thành lập một ban nhạc đàn điện, cũng có một thành viên mang kính trắng và thêm vào đó còn có ca sĩ Từ Công Phụng, một “du học sinh” từ Ninh Thuận lên.

Vốn người gốc Chàm nên Từ Công Phụng là người rất “kiệm lời” nhưng lại là một nhạc sĩ có tài. Khi lên Đà Lạt anh đã có 2 sáng tác đầu đời: “Bây giờ tháng mấy”“Mùa thu mây ngàn”.

 

Ban nhạc Trường Trần Hưng Đạo, Dalat (1965)

 

Chúng tôi đã có lần xuất hiện trên sân khấu rạp Hoà Bình trong một chương trình dành cho các ban nhạc học sinh, đồng thời cũng nhận các show diễn trong các buổi “balle de famille” của các bạn bè tại thành phố Sương Mù!

Rốt cuộc chỉ có Từ Công Phụng tiếp tục sự nghiệp văn nghệ cho đến ngày hôm nay còn 3 thành viên khác theo đuổi sự nghiệp riêng, hoàn toàn không liên quan gì đến văn nghệ.

 

Nhạc sĩ Từ Công Phụng

 

Bài viết “Dòng nhạc ngoại bất hủ của ngày xưa” tạm thời chấm dứt tại đây. Hẹn các bạn vào một dịp khác về dòng nhạc Pháp cũng đã một thời được ưa chuộng tại Việt Nam.

 

*** 

--> Read more..

Thứ Hai, 30 tháng 9, 2024

Hội ngộ những khuôn mặt xưa

Gặp nhau đầu tuần mà đến hôm nay cuối tuần mới “rặn” ra được bài viết này! Tất cả cũng chỉ vì “lười” một khi “long thể bất an” nên “lực bất tòng tâm”! Xin các bạn già thứ lỗi.

Buổi gặp gỡ đầu tuần kéo dài từ 7 giờ sáng cho đến hơn 11 giờ trưa với thành phần tham dự là các “bô lão đồng môn” trường Trung học Ban Mê Thuột ngày xưa. Giờ thì người nào người nấy đều vác trên lưng “bảy tám bó có dư”.

Địa chỉ là Cà Phê Sơn (còn được gọi là Cà Phê Cô Thuý) đã được gửi đến các thành phần khách mời để tiện việc tìm kiếm. Ấy thế mà nhân vật chính trong buổi gặp mặt là Phạm Công Lạc lại là người đến cuối cùng! Đơn giản là vì “Lạc Lùn” ở tận Xứ Cờ Hoa tìm về thăm anh em.

 

Địa chỉ “Sơn Coffee & Tea” trên Foody.vn

 

Lạc Lùn” là biệt danh của Lạc từ thời còn đi học, tuy lùn nhưng lại lả một cầu thủ có lối săn bàn không thua gì “Vinh Đầu Hói” của đội tuyển VNCH. Giờ thì có lẽ cái tên “Lão Ngoan Đồng” chính xác hơn vì “Cụ Lạc” mở miệng ra không khác gì nhân vật của Kim Dung: vừa khôi hài như trẻ thơ lại pha chút “lí lắc” của một… ông già!

Lạc giải thích lỳ do tại sao đến trễ: “Tao phải đi bộ cả cây số mới tìm được cái quán này… đó là chưa kể đến việc phải hỏi đường biết bao nhiêu người mới đến được đây!”

Vốn đã quen với lối nói chuyện của “Lão Ngoan Đồng” từ xưa nên anh em chỉ biết… cười xoà thông cảm! Lạc rời Việt Nam từ năm 1975 với hai bàn tay trắng nhưng lại thành công trên đất nước tạm dung với các cơ sở kinh doanh phát đạt tại Houston, Texas.

Người ta thường nói tóc bạc do Trời nhưng bản tính của mỗi con người vẫn không thể nào thay đổi theo thời gian.

 

Nhân vật chính Phạm Công Lạc đến từ xứ Cờ Hoa

 

Một người nữa cũng từ ở xa về nhưng không đến nỗi phải “vượt biển” rời xứ Cở Hoa như Lạc mà chỉ từ xứ sở sương mù Đà Lạt. Trần Hữu Thịnh về Sài Gòn chỉ để gặp Lạc, hành trang của Thịnh thật gọn nhẹ, anh nói gặp Lạc xong rồi sẽ về Đà Lạt ngay vì còn bận điều hành một khách sạn khá đông khách gần khu Hoà Bình.

Nguyễn Khánh Hồng là dân Sài Gòn nên tự đứng ra đảm nhận nhiệm vụ làm cầu nối để các bạn cũ gặp nhau. Hồng chuyên về việc sưu tầm tem bưu chính và đã hình thành một câu lạc bộ của các bạn cùng sở thích. Anh tự hào tuy tuổi đã cao nhưng vẫn còn hoạt động trong lãnh vực mà mình yêu thích.

Trong số các bạn gặp nhau hôm nay còn có Bùi Thế Vĩnh, anh là một nhà giáo theo đúng nghĩa vì đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm để giảng dạy từ BMT và về đến đất Sài Gòn. Giờ đã về hưu nhưng ở Vĩnh năng lượng vẫn tràn đầy nên có mặt trong hầu hết các cuộc hội ngộ bạn bè thời trung học.

Thêm một anh bạn học lớp dưới cũng tham gia nhưng chỉ tiếc một điều là tôi không biết rõ về anh. Thế là cả 6 người gặp nhau, chuyện trò rôm rả. Những kỷ niệm thời còn đi học được nhắc đến, thôi thì đủ chuyện, từ chuyện thầy cô cho đến chuyện tình thuộc loại “thâm cung, bí sử” của các bạn học.

 

Đội hình chính thức 6 bô lão họp mặt

 

Chầu cà phê do anh Vĩnh âm thầm thanh toán vả tiếp theo là “tăng hai” do Lạc đãi. Địa điểm ăn sáng ở ngay bên kia đường, “Bún chả Hà Nội” đối diện với Cà Phê Sơn do tôi đề nghị, lý do lúc đó cũng gần 11 giờ mà tôi thì lại ngại đi xa!

Ăn sáng xong Hồng đề nghị đi “tăng ba” ghé nhà anh ở quận Tân Bình. Tôi xin kiếu vì một buổi sáng đã kéo dài tới mấy tiếng, “theo không nổi” vì phải di chuyển quá nhiều. Các bạn cũng “niệm tình” tấm thân còm cõi của tôi nên tôi được về nhà sau một buổi sáng… “làm việc quá tải”!

 

“Tăng hai” – “Bún chả Hà Nội”

 

Vài dòng ghi lại buổi hội ngộ của các ông già “gần đất xa trời” để giữ lại kỷ niệm một ngày… “làm việc quá sức”!


 *** 

--> Read more..

Thứ Năm, 26 tháng 9, 2024

Nữ hoàng của các loài hoa

Bố tôi đã có một thời say mê việc trồng lan khi ông về nghỉ hưu. Ông có một vườn lan nhỏ trên Đà Lạt trồng cà hai loại lan: phong lan và địa lan. Ngay từ thời còn đi học tôi đã quen thuộc với những tên lan như Thuỷ tiên, Tiên hạc, Hồ điệp, Long tu, Bò cạp, Nhất điểm hồng, Hạc đỉnh, Tử cán…

Ngoài việc chăm sóc vườn lan, thình thoảng ông còn vào rừng gần Trại Hầm để săn lùng những cánh lan rừng với sự trợ giúp của những người Thượng vốn nổi tiếng về cuộc sống nơi vùng rừng núi hoang dã.

Hành trang tìm lan của ông thật đơn giản, chủ yếu là búa và đinh dài hơn 10 phân để làm thang trèo lên gỡ những cụm lan mọc trên thân cây. Công việc này phải thực hiện một cách thận trọng vì hoa lan vốn là một loại cây “rất mong manh dễ gãy”.

Tìm và gặp lan tuỳ thuộc vào “duyên số”, có khi đi cả buổi mà chẳng gặp một cụm lan nào. Lúc đó đành lượm những cành cây mục, đem về để dành cho việc làm những "táp-lô” trồng lan!

Khu tôi ở lại rất gần với Trung tâm Thực nghiệm Lâm sản nằm trên đường Lê Thái Tổ, trước khi đổ dốc để xuống Trại Hầm. Tại đây cũng có một vườn lan để các chuyên gia nghiên cứu chuyên môn về các loài lan.

 

Bố tôi trong trang phục Ngự Lâm Quân - Hình chụp tại Đá Lạt, 1953

Tướng Dương Văn Minh, người mà bố tôi biết từ thời chiến dịch Rừng Sác, hồi đó cũng là một người thích lan. Tại Sài Gòn ông còn sống trong một biệt thự mà báo chí gọi là “Dinh Hoa Lan” chỉ vì vườn lan nổi tiếng của ông.

Có vài lần lên Đà Lạt Tướng Minh cũng ghé thăm vườn lan của bố vì “tình thầy trò” ngày xưa. Tháp tùng ông còn có sĩ quan cận vệ, Đại uý Nhung, người sau này báo chí tiết lộ đã bắn hai anh em Tổng thống Ngô Đình Diệm và Cố vấn Ngô Đình Nhu trong xe M113 trên đường chạy trốn Lực lượng Cách mạng năm 1963!

 

Tướng Dương Văn Minh

 

Người thích hoa lan nổi tiếng khác phải kể đến nhà văn Nhất Linh của Tự lực Văn đoàn. Ông Nhất Linh sau này là người chống đối Tổng thống Diệm nên phải về ”ở ẩn” gần cây xăng Kim Cúc, trên dốc đổ xuống đèo Prenn.

Ông Nhất Linh được nhiều người trồng lan ở Đà Lạt nhắc đến câu thơ ông ca tụng hoa lan:

“Góp tụ tinh anh của bốn phương

Muôn màu, muôn sắc lại muôn hương”!

Tiếc thay, nhà văn đồng thời là nhà hoạt động chính trị Nhất Linh đã qua đời ngày 7/7/1963 tại Đà Lạt, nơi ông đã sinh sống từ năm 1955. Nhà văn Nguyễn Tường Thiết, con trai Nhất Linh, kể lại:

“Về cuối đời cha tôi bị liên lụy vì liên quan đến một vụ chính biến, đưa đến cái chết của ông… Ông tự vẫn để “cảnh cáo những người chà đạp lên mọi thứ tự do”, như ông đã viết ra trên giấy trắng mực đen!

“Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng sẽ làm cho nước mất về tay cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người trà đạp mọi thứ tự do.

(hết trích)

 

Chân dung nhà văn, nhà hoạt động chính trị Nhất Linh

 

Họ Lan (danh pháp khoa học Orchidaceae) là một họ thực vật có hoa, thuộc bộ Măng tây. Đây là một trong những họ lớn nhất của thực vật, và được phân bổ nhiều nơi trên thế giới.

Theo cuốn “Phong lan Việt Nam” của Trần Hợp thì Việt Nam có khoảng 140 chi gồm trên 800 loài lan rừng. Hiện tại ngoài hoa lan mọc hoang dã, lan còn được gây trồng đại trà tại một số nơi, nhiều nhất là ở Tây Nguyên trong đó Đà Lạt là một trong những nơi hoa lan được trồng rộng rãi nhất.

Vườn thực vật hoàng gia Kew liệt kê 880 chi và gần 22.000 loài được chấp nhận, nhưng số lượng chính xác vẫn không rõ vì có thể nhiều tới 25.000 loài. Số lượng loài lan cao gấp 4 lần số lượng loài động vật có vú hay hơn 2 lần số lượng loài chim.

 

Hình chụp tại National Orchid Garden, Singapore, 2013

 

Hoa lan được ưa chuộng vì vẻ đẹp đặc sắc và các hình thức đa dạng của chúng. Cũng giống như cây lan, hoa lan hầu như có tất cả các màu trong cầu vòng và những kết hợp của các màu đó.

Đa số các loại hoa lan được bán rộng rãi trên thị trường thường không có hương thơm nhưng trong tự nhiên có rất nhiều loại lan có mùi thơm đặc trưng. Vanilla là một loại hoa lan mà hương thơm được dùng trong các loại ẩm thực của thế giới và có nguồn gốc từ Mexico.

Trong phần hình ảnh, chúng tôi xin giới thiệu một bộ sưu tập các loại lan lạ trên khắp thế giới với tên khoa học. Đây là những hoa lan lạ… đúng như lời khen ngợi của nhà văn Nhất Linh:

“Góp tụ tinh anh của bốn phương

Muôn màu, muôn sắc lại muôn hương”

 

***


Angelic Iris


Bartholina Ethelae


Bearded Iris (Iris germanica)


Bee Orchid


Black and White Cattleya Orchid (Cattleya Hybrid)


Blue Ghost Orchid (Dendrophylax lindenii 'Blue Ghost')


Bulbophyllum Plumatum


Carousel Spider Orchid


Cattleya Orchid


Cattleya Orchids (Cattleya spp.)


Cracked Porcelain Orchid (Phalaenopsis 'Cracked Jade')


Dendrobium Orchid


Dracula Simia (Dracula simia)


Exotic Cattleya Orchid (Cattleya Hybrid)


Fringed Orchid (Pecteilis radiata)


Ghost Orchid (Dendrophylax lindenii)


Ladyslipper Orchid (Paphiopedilum)


Magnificent Orchid Bloom


Mesmerizing Orchid Blossom


Monkey Face Orchid (Dracula simia)


Orchid (Cattleya)


Orchid (Ghost Orchid)


Orchid ‘Dragon Wing'


Paphiopedilum Orchid (Lady's Slipper Orchid)


Phalaenopsis Orchid (Phalaenopsis spp.)


Rare Orchid (Paphiopedilum)


Red Spider Orchid (Cymbidium erythrostylum)


Spotted Leopard Orchid (Dockrilla maculata)


Vanda Orchid


Vibrant Moth Orchid


Whimsical Monkey Orchids


White Egret Orchid


***


--> Read more..

Popular posts