Thứ Hai, 26 tháng 11, 2012

Nhà văn nữ trước 1975: Nguyễn Thị Thụy Vũ

(Tiếp theo)

Chúng ta có trong danh sách những nhà văn nữ nổi tiếng trước 1975 một nhà văn gốc miền Nam, Nguyễn Thị Thụy Vũ [1], sau một loạt 3 nhà văn Huế: Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng.  

Nguyễn Thị Thụy Vũ là một cô giáo tại Vĩnh Long, một thành phố thuộc Nam kỳ Lục Tỉnh ngày xưa nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Năm 1961 cô giáo Nguyễn Thị Băng Lĩnh lên Sài Gòn và sớm bước vào làng văn như một “hiện tượng văn học nữ” với bút danh Nguyễn Thị Thụy Vũ.

Nguyễn Thị Thụy Vũ
(Ảnh Cao Lĩnh)

Thụy Vũ xuất hiện muộn màng nhưng vẫn chiếm cho mình một chỗ đứng trong danh sách những nhà văn nữ nổi tiếng bên cạnh 4 “cậy đại thụ”: Nhã Ca dành ngôi vị thứ nhất, cả về thơ lẫn văn; Túy Hồng tự khẳng định mình với giọng văn chanh chua nhưng vẫn lãng mạn theo kiểu Huế; Trùng Dương được coi như ngọn cờ đầu trong văn chương hiện sinh của các nhà văn nữ còn Nguyễn Thị Hoàng đã chiếm cho mình một chỗ với bước đột phá Vòng tay học trò.  

Nguyễn Thị Thụy Vũ đã biết tự khai thác điểm mạnh và thế mạnh của mình mà những nhà văn nữ đi trước không có. Ở giai đoạn đầu, Thụy Vũ lăn lộn với những mảnh đời “trôi sông lạc chợ” của các cô gái bán bar, đĩ điếm để bước vào nghề viết và sau này lại quay hẳn 360 độ sang một khía cạnh hoàn toàn trái ngược: tôn giáo, tâm linh, cụ thể là triết lý Phật giáo.

Để có một cái nhìn khách quan về Thụy Vũ, chúng ta cần điểm qua một số nhận xét của các đồng nghiệp. Nhà văn Võ Phiến viết về Nguyễn Thị Thụy Vũ trong Văn học Miền Nam (xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1999):

“Đầu thập kỷ 60 - tôi không nhớ rõ năm nào - tòa soạn Bách Khoa bắt đầu nhận, thỉnh thoảng một thiên truyện ngắn của một người viết mới, thuộc phái nữ, ký tên Nguyễn Thị Băng Lĩnh. Lúc bấy giờ các cây bút nữ giới hãy còn hiếm. Tòa soạn có ý tò mò...

.. Người ấy về sau mang bút danh Nguyễn Thị Thụy Vũ, là tác giả cuốn sách có tên là Mèo đêm, Lao vào lửa, Cho trận gió kinh thiên... Tức là thứ sách mà các thế hệ phụ nữ nước ta trước đó không mấy kẻ dám đọc, đừng nói đến chuyện viết!"

Nhà văn, họa sĩ Tạ Tỵ trong Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay (xuất bản tại Sài Gòn năm 1973) viết: “Nguyễn Thị Thụy Vũ, nhà văn phái nữ, hiện diện giữa khung trời văn nghệ với sắc thái đặc thù. Những ý nghĩ bỏng cháy và rẫy rụa về thân xác trong mỗi tác phẩm, đôi khi vượt qua ý nghĩ của nhiều người”.

Uyên Thao nhận xét: “Nguyễn Thị Thụy Vũ là một cây bút khá sắc bén và tinh tế, nhưng vẫn có những sơ hở nặng nề của một tinh thần tùy hứng” (Các nhà văn nữ Việt Nam 1900 - 1970, xuất bản tại Sài Gòn năm 1973).

Về phần mình, Thụy Vũ giải thích qua phỏng vấn của nhà văn Nguyễn Đông Ngạc: "Tôi bước vào văn đàn bằng những truyện ngắn. Truyện ngắn khó viết vì tư tưởng lẫn cảm hứng chỉ được diễn tả trong một khuôn khổ ngắn. Người viết phải cô đọng tư tưởng.

Tôi thích truyện ngắn không có cốt truyện, mà đầy nhiều chi tiết soi sáng thái độ lẫn quan niệm của tác giả đối với văn chương và cuộc đời. Trong ba tập truyện Mèo Đêm, Lao Vào Lửa, Chiều Mênh Mông, hầu hết các truyện ngắn đều có cốt truyện hẳn hòi, nên tôi không được vừa ý lắm."

Nguyễn Thị Thụy Vũ
(Ảnh Cao Lĩnh)

Tập truyện đầu tay, Mèo đêm, của Nguyễn Thị Thụy Vũ xuất hiện năm 1966 và đó là thời điểm các nhà văn nữ đang làm mưa làm gió trên văn đàn. Với Mèo đêm, Thụy Vũ bớt rụt rè hơn với văn giới, mạnh dạn đặt chân tới tòa soạn Bách Khoa. Trước đó, khi viết bài xong, đưa cho Võ Phiến xem trước và khi bài vở được đăng, Hồ Trường An, em trai của Thụy Vũ, thường đến tòa soạn nhận tiền nhuận bút dùm chị.

Tập Mèo đêm gồm 6 truyện ngắn Đợi chuyến đi xa, Một buổi chiều, Mèo đêm, Nắng chiều, Bóng Mát Trên Đường, Miền Ngoại Ô Tỉnh Lẻ. Trong truyện Mèo đêm, được đứng tên cho cả tập truyện, Thụy Vũ đã đi sâu vào thế giới của “gái bán bar”, một giai cấp mới khi lính Mỹ có mặt tại miền Nam. Nhân vật chính là Loan với cái tên Mi-Sen hằng đêm tiếp xúc với các GIs tại snack bar tựa như con mèo đêm bòn rút những đồng đô la “đỏ” [2] của những người lính xa nhà.

Trong Lao Vào Lửa, nhân vật chính là một nữ sinh ngây thơ có tên Tina phải tìm việc trong một quán bar vì gia đình túng thiếu. Tác giả mô tả một cảnh trong thế giới “Saigon Tea” bên những tên hộ pháp người nước ngoài lúc nào cũng thèm khát giải quyết nhu cầu sinh lý:

"Một tên Mỹ cao lớn, râu ria cạo nhẵn thín, nhưng vết sẹo trên râu quai nón vẫn làm tối sầm khuôn mặt hắn. Hắn nhe răng cười mơn trớn hỏi:
- Em tên gì?
Tôi trả lời cộc lốc:
- Tina
Hắn lôi tôi vào lòng rồi đặt lên bắp đùi hắn. Bàn tay hắn sờ soạng trên ngực và eo của tôi. Chị Năm thường nói với tôi là tụi đàn ông Âu Mỹ lông lá như con dã nhơn, mỗi ngày cạo râu hai lần thì hành sự rừng rú chịu không nổi. Tôi sợ sệt nhìn cánh tay hắn. Hắn buông thõng tay tôi tiếp tục:
- Ngủ với tôi đi.

Nguyễn Thị Thụy Vũ tìm những kinh nghiệm “xương máu” đó từ đâu để viết thành truyện? Ngoài việc là nhà văn nữ dễ dàng trong việc tiếp cận với những “cô gái bán bar”, Thụy Vũ còn là người kèm tiếng Anh cho những cô gái nhà quê, thậm chí nhiều cô không biết chữ.

Qua bài viết Thụy Vũ chăn dê của Ðỗ Tăng Bí, Thụy Vũ sau 1975 nhớ lại: “Lúc đó quân đội Mỹ vào Việt Nam đã đông, “chị em ta” cặp kè với các chàng GI khá nhiều, nên chuyện học vài ba câu giao tiếp rất cần thiết đối với các nàng. Khổ một cái học tiếng Anh cho đủ để đi dậy đâu phải là dễ, đâu phải một sớm một chiều là có đủ vốn liếng mà dậy. Nhưng chuyện cần kiếm tiền sống lại là khẩn thiết đối với tôi, nên anh bạn tôi nghĩ ra mẹo này: Anh nói tôi cứ ghi tên học Hội Việt Mỹ đi, sau khi học được một hai tuần là bắt đầu đi dậy Thế là tôi học được cái gì ở trường, tuần sau cứ thế dậy lại. Ðâu đứa nào dám hỏi nên cái dốt của mình đâu có lòi ra. Vậy mà tôi sống cũng được hai năm lận”.

Trong suốt 2 năm làm cô giáo, lăn lộn trong giới “bán bar”, Thụy Vũ có quá nhiều vốn sống để viết truyện về họ và kết quả như ta đã thấy, một loạt truyện về những mảnh đời “trôi sông lạc chợ” xuất hiện trên văn đàn.

Nguyễn Thị Thụy Vũ viết rất “bạo” đến độ một số nhà phê bình xếp tác giả vào loại những cây bút khiêu dâm. Những cảnh ái ân được mô tả như “làm đùng đùng như cù dậy” hoặc “làm đùng đùng như con cá sấu đập đuôi bánh lái ghe chài”… Trong Cho trận gió kinh thiên tác giả đã để cho nhân vật thốt ra những lời chửi rủa rất bình dân, thô tục: “Tam đại tứ đại, cao tằng cố tổ con đĩ mụ nội nó” hay những câu rủa xả bất ngờ:  "Mầy là con đĩ ăn cám uống hèm nên ngu si đần độn"...

Trong Đàn kiến lửa cũng có lối chửi rất đời thường, rất giang hồ, rất chợ búa của Bà Tư dành cho cô con gái trót đã có bầu: “Nè con đĩ chó, mày cặp xách với thằng Chơn đằng nhà bà Bảy Bụng phải không?”… “Mày ngựa quá mà. Bây giờ nó tính sao với mày đây?”… “Mày là đồ uống máu dơ. Đợi đến lúc nó về phép thì cái bụng mày chình ình rồi”… “Trời đấy quỉ thần thiên địa ơi, ai mà dè”.

Thụy Vũ có một lối văn rất “tả chân”, không cầu kỳ như Nguyễn Thị Hoàng mà cũng không đanh đá như Túy Hồng. Trong Đêm tối bao la, còn có tên là Bà điếc, Thụy Vũ mô tả chân dung một người tình:

“Duy choàng tay qua đôi vai tôi, đôi môi chàng màu tro nặc mùi thuốc lá hờ hững đặt lên môi tôi. Nụ hôn chia tay này không còn nồng nàn như mấy năm về trước. Tôi lách ra khỏi vòng tay ấy, ngoái lại nhìn chàng. Da chàng trắng nhờn nhợt như da bụng con thằn lằn. Mặt chàng sần sùi và thô nặng như một tảng đá không còn làm da thịt tôi nháng lửa nữa. Đôi vai rộng và cái mông tròn của chàng ngày trước đã lôi cuốn sự chú ý của tôi. Bây giờ cuộc yêu đương hờ hững không đem đến cho nhau nhiều rung động nữa. Đàn ông đâu phải chỉ mê hoặc đàn bà ở cái vai và cái mông”.

Nhân vật Bà Điếc được mô tả một cách “sống sượng” dưới ngòi bút của Thụy Vũ: “Sau cái chết của ông Tư chăn dê, bà dan díu với ông Năm Còm bạn chè chén của ông Tư. Ông này tặng cho bà một thứ bệnh ngặt nghèo làm ung mủ cả hai chân răng và chúng thi nhau rời khỏi niếu của bà. Tiếng nói của bà ngọng nghịu. Sau cơn bệnh ấy, bà mất cả thăng bằng. Tính tình gắt gao, nóng nảy. Cách giải phẫu của y sĩ chẳng những không làm tình dục bà tắt đi, mà trái lại còn chụm thêm củi đuốc để cho cơn cuồng loạn xác thịt của bà chồm lên cao. Bà khao khát đàn ông đến nỗi không còn biết hổ thẹn là gì nữa”.

Nguyễn Thị Thụy Vũ
Qua nét bút của họa sĩ Chóe

Giữa Nguyễn Thị Hoàng và Nguyễn Thị Thụy Vũ đều có một sự chuyển hướng về tư tưởng qua các truyện ngắn viết về sau: Nguyễn Thị Hoàng bước sang đề tài siêu hình với những truyện thuộc loại “tân liêu trai” còn Thụy Vũ quay ngắt sang lãnh vực tôn giáo qua Lòng trần trong tập Những truyện ngắn hay nhất của quê hương chúng ta, nhà xuất bản Sóng, Sài Gòn, 1974.

Có thể nói, đây là một tác phẩm nang nhiều ẩn dụ lồng trong nhân vật ni cô Diệu Tâm một thời là cô đào hát bội Năm Thàng. Người nữ tu đã qua hàng chục năm tu hành trai tịnh khi sắp lìa đời vì bệnh hoạn trong cơn mê sảng đã thốt lên: “Mô Phật! Cho tôi muỗng nước mắm, tôi uống vào sẽ hết bịnh liền”. Cũng vì thế, truyện Lòng trần còn có tên Muỗng nước mắm.

Theo lời Thụy Vũ, đây là câu chuyện có thật trong gia đình mình. Nữ nghệ sĩ Năm Thàng trong truyện chính là Tư Bổn, một trong những người tiên phong trong làng hát bội, trước cả bà Năm Sa Đéc, Năm Đồ, Cao Long Ngà… Nhân vật này cũng đã được Vương Hồng Sển nhắc đến trong 50 Năm Mê Hát.

Hồng nhan vốn đa truân nên cô đào hát trở thành một nhân vật cô đơn khi chồng và con đều sớm lìa đời. Cô cắt tóc đi tu và trở thành ni cô Diệu Tâm cho đến ngày hấp hối người nữ tu thấy miệng mình quá lạt, trong tư tưởng bà chỉ nghĩ đến một muỗng nước mắm sẽ giúp bà qua khỏi cơn bệnh.

Phải chăng ni cô Diệu Tâm tìm đến cửa thiền chỉ để trốn tránh những bất hạnh của cuộc đời chứ không vì tìm sự giác ngộ cho bản thân. Nếu tu hành chỉ đơn thuần để trốn tránh đau khổ trần thế thì kết cuộc cũng không thể nào dẹp bỏ lòng trần, đến cuối cuộc đời vẫn không thể thoát được ám ảnh vị mặn của bụi trần.  

Bút pháp của Thụy Vũ trong Lòng trần cũng thay đổi. Ngôn ngữ bình dân đến độ thô tục trong các truyện trước được thay bằng những đoạn viết có tính cách văn chương hơn:

“Con đê dài rộng, hai bên trồng dừa Tân Quan cao hơn đầu người thẳng hàng, đều khoảng. Những quày dừa màu hỏa hoàng oằn trái. Bóng dừa chìm dưới đáy nước của hai đầm sen - bên trái đầm sen trắng, còn bên phải đầm sen hồng. Từ con đê đi vào khoảng ba trăm thước, một ngôi chùa nằm im lìm giữa hai hàng dương.

Chùa này vì ít thiện nam tín nữ lui tới nên càng thêm vẻ đìu hiu, lạnh ngắt. Từ đường cái nhìn vào, ít khi người ta nhìn thắy bóng dáng những nhà tu. Chỉ nhìn thắy chiếc tháp cao trơ vơ với rêu bám nham nhở và vài viên gạch mục rớt ra lở lói. Mái chùa thấp ẩm ướt và bóng tối đặc quánh tiếng kêu vo ve của đám muỗi đói lẫn tiếng chí chóe của đàn chuột dưới những bàn thờ và tiếng vỗ cánh của đàn dơi hoang.

“Ni cô Diệu Tâm trở mình thức giấc. Bà lần mò ra chánh điện để kịp gác công phu. Trong im vắng hoàn toàn, ni cô nghe rõ tiếng chuột bọ chạy rột rẹt và tiếng thằn lằn trên kèo nhà chắc lưỡi. Bên ngoài, ếch nhái dưới ao con trổi giọng uênh oang át cả tiếng dế trong bụi ô rô nhọn oắt”.

“Cô Năm mới tìm thấy tình yêu muộn màng nhưng có một sức mạnh lôi cô ra khỏi ánh đèn sân khấu vĩnh viễn, bỏ hẳn cuộc sống nay miếu này mốt đình nọ. Chỉ một năm sau, cô sanh được một đứa con trai kháu khỉnh. Ðứa con trai đó nối dõi tông đường của ông phú hộ trong khi bấy lâu nay ông cứ ngỡ là mình tuyệt tự. Ông mừng đến sa nước mắt khi đứa con trai độc nhất của ông càng lớn càng giống những nét thanh tú trên gương mặt của ông và cô Năm.

Ông phú hộ toan tính biết bao nhiêu về dự định tương lai cho đứa bé. Nhưng ông đột nhiên chết bất thần vì một tiếng sét long trời sẹt vào nhà làm đổ cả tủ kiếng và giết ông nhanh chóng. Cái chết tức tửi đó làm cho dân làng xầm xì bàn tán là ông ăn ở thiếu phúc đức nên trời sai Thiên Lôi xuống giết gấp rút như vậy”.

“Ðứa con của cô được môt năm thì bị một cơn sốt dữ mà tất cả danh y đều bó tay đầu hàng. Cô Năm tê điếng trong niềm tuyệt vọng. Ðã bao lần ý nghĩ tự sát chập chờn qua tâm nảo cô. Ba lần tự tử bằng ba cách: cắt gân máu, uống dầu nóng, treo cổ được phát giác ngay”.

Thủ bút và chữ ký của Nguyễn Thị Thụy Vũ

Qua bài Thụy Vũ chăn dê của Ðỗ Tăng Bí, Nguyễn Thị Thụy Vũ kể về cuộc tình của mình với nhà thơ Tô Thùy Yên [3]:

“Hồi đó người ta nói ông Ðinh Thành Tiên [tên thật của Tô Thùy Yên], tức là Ðiên Thành Tinh. Ðiên mà thành tinh thì kinh lắm, công nhận ông ấy điên điên thiệt...

“Nói thiệt với anh, nhiều người hỏi tôi rằng hồi lúc ông Tô Thùy Yên với bà chia tay sao bà không lấy chồng? Tôi trả lời rằng khi lấy ông Yên là coi như tôi lấy hết đàn ông trên thế giới này - đàn ông thế giới nghe chứ không phải chỉ đàn ông Việt Nam – Thế là đủ quá rồi, sợ quá rồi...

Cũng như hồi ông Yên đi cải tạo, tôi ra thăm, nói lại các anh không tức cười thì thôi. Bước vô thì công an ngồi đầu bàn, tôi với ông ấy ngồi đối mặt. Tôi hỏi: ‘Anh ơi, anh đi cải tạo mấy năm rồi?’ Ông ấy trả lời hơn bảy năm rồi. Tói nói: ‘Ủa, sao mau dữ vậy’. Thằng công an nó tức cười quá, người ta vợ con vô khóc bù lu bù loa, còn mình nói câu lãng xẹt.

Ông Yên mới nói: ‘Em ơi, xa mặt cách lòng!’ Tôi nói: ‘Ðáng lý ra anh phải hỏi câu này nè: Em ơi, làm sao em nuôi nổi con? Còn xa mặt cách lòng hở, mai này anh về, trong giới giang hồ anh cứ hỏi cái con Thụy Vũ này nó có lăng nhăng bậy bạ không? Mà như vậy không phải tôi chung thủy với anh đâu nghe, mà chỉ vì tôi ngán đàn ông quá rồi’. Nghe vậy ông ngồi mặt méo xẹo.

Ông công an nín cười không nổi phải bước ra chỗ khác che miệng mà cười. Nghĩ cũng tội nghiệp, tới chừng lên xe mưa tầm tã, bà già ông ấy mới nghĩ đến con khóc khúc khít. Bà nắm tay tôi hỏi: ‘Con ơi thế con hết thương thằng hai của má rồi hở’. Tôi trả lời thôi để má thương thằng hai của má đi. Mà bà già ở quê lên nói tội nghiệp: ‘Con ơi sao vợ con người ta khóc mà con cứ ngồi cười hoài vậy. Dù sao mày cũng ở với nó ba mặt con’. Tôi trả lời: ‘Ba mặt con cũng như không có đứa nào, ổng có coi như có đứa con nào đâu’.

Thụy Vũ mong con trai giống gì thì giống chứ đừng có giống bố Yên cái thói trăng hoa. Lúc còn chung sống với nhau, hầu như “mỗi tuần lễ ông ấy có một mối tình, mà thứ đó là tình dục chứ không phải tình yêu”. Bữa nào Tô Thùy Yên lăng xăng cầm tập giấy, huýt gió sau khi tắm là thế nào cũng kể lại mối tình mới…

“Một bữa ông ấy có cô bé đó, còn nhỏ lắm, ông ấy rủ đi ăn hủ tíu cá ở Hàm Nghi. Nhằm lúc tôi ghé tòa soạn, nên ông ấy nói chờ lát ra đó luôn. Hai người vào kêu 3 tô hủ tíu. Cô bé hỏi sao kêu đến 3 tô lận? Ông ấy nói thì kệ nó cứ kêu 3 tô.

Chừng tôi bước vô, cô ta hoảng hồn đứng dậy chạy. Tôi nắm tay nó lại và nói: ‘Em ơi, cứ ngồi đây đi. Ổng của chùa của miễu chứ không phải của chị đâu. Cứ yên chí ăn đi không có sao đâu, rồi chị đi chỗ khác cho em ăn với anh ấy. Rồi em chờ đó, mấy bữa nữa là lại gặp người khác nữa kìa... Cho nên tôi mãi mãi là người độc thân”.

Tô Thùy Yên

Trong số 5 nhà văn nữ được nói đến, Túy Hồng cùng Thanh Nam rời Việt Nam trước ngày 30/4/1975 một tuần lễ, Trùng Dương ra đi ngay sau đó, Nhã Ca và Trần Dạ Từ mãi đến năm 1992 mới ra khỏi Việt Nam với sự can thiệp của Văn bút Quốc tế và hội Ân xá Quốc tế. Ở lại Sài Gòn chỉ còn Nguyễn Thị Hoàng và Nguyễn Thị Thụy Vũ, mỗi người một tâm sự với nhiều trăn trở khiến họ sống trong cái bóng của chính mình.

Nguyễn Thị Thụy Vũ là nạn nhân của “một gia đình bị phân hóa bởi hai lý tưởng quốc gia và cộng sản”. Thân phụ Thụy Vũ, nhà thơ Mặc Khải tác giả Phấn nội hương đồng dưới thời VNCH lại hoạt động kinh tài cho VC và có mối quan hệ mật thiết với Vũ Hạnh, Lưu Nghi, Tường Linh, Kiên Giang, Chinh Văn và số văn nghệ sĩ thân tả. Mặc Khải mở một tiệm thuốc tây nhỏ ngay khu chợ Lộc Ninh để nuôi cán bộ, trợ cấp tiền bạc cho Việt Cộng.

Thụy Vũ kể lại: “Mới “giải phóng” vô, tổ chức học tập, bọn chúng đến nói ba tôi: ‘Anh không biết dậy con. Con anh nói nhiều cái khó nghe quá’. Ông già tôi nói: ‘Tôi hãnh diện vì nó. Nó có lý tưởng nó, tôi có lý tưởng tôi’.

Ông ấy điệu lắm. Ổng mất hai mươi mấy năm rồi. Hồi mới kêu bằng “Quân Quản” đó thì ông ấy là cố vấn Hội Văn nghệ ở Sài Gòn. Lúc đó có Bảo Ðịnh Giang. Hồi xưa Bảo Ðịnh Giang đánh xe ngựa cho ông già tôi. Một hôm ổng đến nhà Bảo Ðịnh Giang nói với anh gác cửa: Vào nói Bảo Ðịnh Giang có thằng đánh xe ngựa tới thăm”.

Nguyễn Thị Thụy Vũ sau năm 1975

Trong tác phẩm Cõi ký ức trăng xanh, Hồ Trường An, em trai của Thụy Vũ, viết về gia đình anh giữa lằn ranh Quốc-Cộng: “Bà Song Thu, ba tôi, cô Phương Đài, dượng Trần Quân đều ngả theo phe tả... Tô Thùy Yên thuở đó chống Cộng có lập trường. Còn Thụy Vũ và tôi cứ lửng lơ con cá vàng giữa hai chủ nghĩa.

“Sau ngày 30/4/75, chị tôi đem lũ con lên Lộc Ninh để làm rẫy. Nhưng vì tôi kỳ kèo nên chị phải về Sàigòn để học khóa Bồi dưỡng Chính trị vào năm 1976 do bọn cán bộ văn nghệ cộng sản tổ chức... Qua màn tự phê tự kiểm, Thụy Vũ mệt lả người, trong khi đó chị Nguyễn Thị Vinh, chị Trần Thị Tuệ Mai vây chung quanh chị, mắt chị nào cũng nhòa lệ; cái thân phận làm kẻ bại trận thật nhục nhã, ê chề”.

Cuộc đời của Nguyễn Thị Thụy Vũ và các con tại Lộc Ninh sau 1975 cũng thảm thiết không kém. Thụy Vũ trồng tiêu, Thụy Vũ làm rẫy, Thụy Vũ chăn dê. Cũng vì vậy, Đỗ Tăng Bí mới có bài viết nhan đề Thụy Vũ chăn dê, dùng lối chơi chữ theo tích xưa “Tô Vũ chăn dê” về nhà ngoại giao đời vua Hán Vũ Đế bị đầy đi chăn dê khổ cực ở phương Bắc, gặp “vượn người” kết nghĩa phu thê 19 năm trời mới được trở về Hán.

Tích xưa “Tô Vũ chăn dê”

Văn Quang trong bài viết Người con gái 27 năm với đời sống thực vật kể lại một chuyến cùng vợ đi thăm Thụy Vũ:

“Chị đãi chúng tôi bữa cháo. Đang cơn đói, không cần đợi chị mời, tôi ăn uống ngon lành. Bỗng tai tôi chói lên vì một tiếng hú. Tiếng hú của một con thú nào đó từ rừng hoang vọng lại nhưng rất gần, sát bên chỗ chúng tôi đang ngồi. Tôi ngơ ngác, nhưng mọi người thì vẫn bình thản như không có chuyện gì xảy ra. Chị Thụy Vũ lặng lẽ đứng dậy, Ngân thấy tôi nhìn qua khung cửa sổ bèn mỉm cười nói ngay:
- Nó khóc đấy!
Tôi vẫn ngớ mặt:
- Nó là cái gì? Con khỉ hay con heo rừng hay con chó sóỉ
- Con Thụy, con gái chị Thụy Vũ đấy, anh không biết sao?
- Chỉ nghe nói chị Vũ có một người con bị bệnh bại liệt thôi.
- Không phải bại liệt mà cháu sống như cây cỏ từ 27 năm nay rồi. Cháu nằm đó mà không hề hay biết gì hết. Năm nay cháu 29 tuổi. Em đã từng chăm sóc cháu ngay từ khi cháu còn nhỏ. Lúc đó thì còn có thể bồng bế cháu dễ dàng, đưa lên xe lăn, đẩy cho cháu ra ngoài chơi. Nhưng bây giờ thì cháu lớn quá rồi, không ai trong nhà này bế nổi cháu lên xe nữa, đành chịu vậy thôi. Mỗi lần đi đâu, em nhớ và thương nó không thể xa nó lâu được.

“Trong căn phòng nhỏ hẹp, trên chiếc giường lạt tre thưa thớt, một thân hình con gái trắng nhễ nhại với chiếc quần cụt, chiếc áo thung ngắn tay nằm ngay đơ trên chiếu chỉ trải có nửa giường. Bởi nơi đó là nơi cháu vừa ăn ở, vừa đi vệ sinh, vừa làm chỗ tắm. Cháu không thể nằm nệm vì chẳng có thứ nệm nào chịu cho nổi. Phải nằm nửa giường lạch tre thưa để tiện cho mọi công việc ăn uống, tắm rửa.

Hơi thở thoi thóp, cái thân hình con gái căng đầy, cặp chân nhỏ xíu chẳng cân xứng chút nào với thân hình. Cháu không hề biết mình sống hay chết, không biết đói no, không biết gì hết ngoài hơi thở là của con người. Cho ăn thì ăn, ăn bất cứ thứ gì được mẹ hay các cô dì, bạn của mẹ đưa vào miệng. Không cho ăn, cháu cũng chẳng đòi.

Thỉnh thoảng cháu hú lên không phải vì đói mà vì một lẽ gì đó không ai biết. Tiếng hú như tiếng kêu của một oan hồn hơn là một con thú hoang. Nghe tiếng hú, tay tôi cầm chiếc máy hình run lên, nước mắt tôi bỗng trào ra, nhòe nhoẹt ống ngắm. Tôi chẳng nhìn thấy gì ngoài cái tiếng kêu ấy”.

Từ trái sang phải: Bà Ngân (vợ Văn Quang) và Thụy Vũ
(Ảnh chụp năm 2010) 

Nhà Phật có luật Nhân Quả và thường nhắc đến Nghiệp Chướng. Tôi hoàn toàn không có ý suy diễn những điều này vào đời sống riêng tư của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. Theo Phật giáo, những điều ta có trong kiếp này là hậu quả của kiếp trước.

Một số những nhà văn nữ nổi tiếng của Sài Gòn xưa hình như cũng đều có ràng buộc về Nhân Quả và Nghiệp Chướng ở một khía cạnh nào đó. Có thể đó là một hậu quả tiêu cực nhưng cũng có thể là kết quả tích cực và Nghiệp Chướng lúc nào cũng đi theo mỗi người như một cái bóng của chính họ.

***

Chú thích:

[1] Nguyễn Thị Thụy Vũ tên thật Nguyễn Thị Băng Lĩnh, sinh năm 1939 tại Vĩnh Long. Cựu giáo chức và hiện sinh sống tại Lộc Ninh. Có một thời Thụy Vũ chủ trương các nhà xuất bản Kim Anh, Hồng Ðức, Kẻ Sĩ với Tô Thùy Yên. Tác phẩm gồm:

Tập truyện:

  • Mèo Đêm. Tập truyện ngắn đầu tay gồm 6 truyện ngắn: Đợi chuyến đi xa, Một buổi chiều (về tâm trạng ray rứt, thèm thuồng tình yêu lẫn tình dục của những cô gái già); Mèo đêm, Nắng chiều vàng (về thế giới của gái bán bar); Bóng mát trên đường, Miền ngoại ô tỉnh lẻ (về niềm cô đơn của các nhân vật nữ).
  • Lao vào lửa gồm ba truyện ngắn: Chiếc giường, Đêm nổi lửa, Lao vào lửa. Tập truyện chủ yếu viết về nếp sinh hoạt của các cô điếm trá hình “chiêu đãi viên” trong các snack bar ở Sài Gòn thập niên 60-70.
  • Chiều mênh mông gồm sáu truyện ngắn: Trôi sông, Đêm tối bao la (với cốt truyện phanh phui đến độ tàn nhẫn bản năng giông bão của hạng cùng đinh trong xã hội); Tiếng hát (miêu tả sự bỡ ngỡ của một thiếu nữ lạc loài được tình cờ cô bước vào cái xã hội văn nghệ sĩ thời thượng); Lìa sông (về một cô gái già may mắn tìm được tấm chồng ở phần kết thúc câu chuyện); Chiều mênh mông, Cây độc không trái (chuyện phá thai của một cô gái bán bar với những chi tiết phá thai khiến người đọc rùng mình).

Truyện dài:

  • Thú hoang: mô tả thế giới nữ sinh trong trường công lập tại tỉnh lẻ gồn 3 nhân vật, một người bị cưỡng dâm, một người phải phá thai và nhân vật thứ 3 không chịu nổi bầu không khí tỉnh lẻ phải lên Sài Gòn.
  • Ngọn pháo bông, truyện về một cô gái buôn phấn bán hương ở lứa tuổi về chiều nhưng vẫn còn hấp dẫn mấy anh lính G.I trẻ trung. Nhân vật có thật, ngoài đời tên Yến “Ngựa” một thời nổi danh tại các vũ trường Sài Gòn và cái chết của cô khiến báo chí bàn tán xôn xao.
  • Khung rêu (Giải thưởng Văn học Toàn quốc năm 1970) Đây là câu chuyện tang thương trong một gia đình địa chủ giàu sang tới hồi khánh kiệt tại Vĩnh Long, nhưng nó được lồng vào một thời đại nhiễu nhương, khi mà giai cấp địa chủ tới giai đoạn mạt điệp trong cuộc chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh. Tác giả lấy một bối cảnh nhỏ lồng vào một vấn đề lớn lao: cảnh ngộ biến suy dập vùi trên lớp sóng phế hưng, trên khúc quanh của thời cuộc, trong sự vận hành của lịch sử.
  • Như thiên đường lạnh, truyện về thảm kịch trong cuộc sống của đôi vợ chồng trên cù lao An Thành. Người chồng là giáo viên tiểu học, ước mong một cuộc đời sôi nổi nhưng bạc nhược không thể nào rời cù lao. Vợ là người đàn bà đảm đang, ghen tương, hổn hào nhưng một mực yêu chồng.
  • Chiều xuống êm đềm: truyện xảy ra vào thập niên thập niên cuối thế kỷ thứ 19. Đôi vợ chồng già  trưởng giả ở làng Đạo Thạnh, tỉnh Mỹ Tho sống cô đơn, nương tựa vào nhau. Dưới mái nhà cổ kính âm u chỉ còn đôi vợ chồng già. Đây là lúc lão ông sống hoàn toàn với dĩ vẫng đau thương. Và đây là lúc lão bà lo sợ cái chết cướp mất một người trong hai vợ chồng để người ở lại chịu cảnh lẻ loi trong buổi hoàng hôn cuộc dời.
  • Nhang tàn thắp khuya là câu chuyện về người vợ đảm đang yêu chồng, gánh vác giang sơn nhà chồng vốn là đại gia thuộc thành phần trưởng giả. Nhân vật thứ 3, một ngưòi bạn chồng, xuất hiện và khấy rối cuộc sống gia đình.
  • Cho trận gió kinh thiên là một xã hội thu nhỏ ở một xóm lao động giữa thủ đô Sài Gòn. Trong xóm ấy có nhà chứa điếm, có các chiếu bạc sòng bài, có quán nhậu, có chỗ hút nha phiến... Nhân vật trong truyện thuộc loại “đá cá lăn dưa”, “chằng ăn trăn quấn”.
Và một số tác phẩm đã đăng trên các báo trong thời kỳ từ 1966 đến 1975 tại Sài Gòn nhưng chưa xuất bản.

Khung rêu

[2] Đô la đỏ: Từ sau Thế chiến thứ hai, chính phủ Mỹ đã phát hành một loại đô-la màu đỏ có mệnh giá tương đương với đồng đô-la màu xanh để sử dụng cho nhân viên quân sự và dân sự trong thời gian công tác ngoài nước Mỹ.

Đồng đô-la đỏ, hay còn gọi là MPC (Miltary Payment Certificate), được sử dụng tại miền Nam có mệnh giá từ 1 cent đến 50 đô-la, trên MPC có ghi rõ: “Military Payment Certificate: For use only in the United States military establishments – by United States authorized personnel in accordance with applicable rules and regulations” (tạm dịch: Chứng chỉ Thanh toán trong Quân đội: chỉ được sử dụng tại các cơ sở của Quân đội Hoa Kỳ - qua các nhân viên có thẩm quyền thuộc Hoa Kỳ theo quy định và luật lệ phù phợp).

Mục đích chính của đồng MPC là tránh cho đồng đô-la xanh chảy ra nước ngoài nhằm bảo vệ nền kinh tế-tài chính của Hoa Kỳ. Có tất cả 13 series tiền MPC của Mỹ được sử dụng từ năm 1946 đến 1973. Sau chiến tranh Việt Nam, Nam Hàn (Đại hàn Dân quốc) là nước duy nhất còn sử dụng bởi quân nhân Hoa Kỳ đồn trú tại đây. Trong cuộc chiến tại Iraq, đồng MPC được thay thế bằng hệ thống Stored Value Card.

Đọc thêm: Sài Gòn xưa: Đồng Đô-la Đỏ 

(http://chinhhoiuc.blogspot.com/2012/12/sai-gon-xua-ong-o-la-o.html)

Đồng Đô-la "đỏ"

[3] Tô Thùy Yên tên thật là Đinh Thành Tiên sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định. Theo học tại Petrus Ký và Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, ban văn chương Pháp. Nhập ngũ năm 1963, phục vụ trong ngành Chiến tranh Chính, cấp bậc Thiếu Tá.

Tô Thùy Yên lập gia đình với vợ chánh là bà Huỳnh Diệu Bích, có thời gian chung sống và có 3 con với nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ. Sau 1975, nhà thơ Tô Thùy Yên bị đi “cải tạo” tổng cộng gần 13 năm. Năm 1993 cùng gia đình với người vợ trước sang Mỹ theo diện HO.

Tô Thùy Yên, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, cùng với các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng, là những người nòng cốt của nhóm Sáng Tạo được biết đến với phong trào khai sinh  Thơ Tự Do  trên văn đàn Miền Nam vào thập niên 1960. Cả hai tập thơ Tuyển tập thơ Thùy Yên (1995) và Thắp tạ (2004) đều được xuất bản ở Hoa Kỳ. Lê Thị Huệ viết về tập thơ Thắp tạ:

“Có ba điều vĩ đại trong thơ Tô Thùy Yên. Điều vĩ đại thứ nhất, thơ Tô Thùy Yên có những câu hỏi lớn về hiện hữu và vô hình. Điều vĩ đại thứ hai, thơ Tô Thùy Yên cưu mang được sự vĩnh cửu của thi ca. Sự vĩnh cửu trong tư thế sống sót. Sống sót trong thân thế của chính thi sĩ và trong những nốt thơ ông nhả ra. Thơ Tô Thùy Yên váng chút Hán chút Đường cổ điển rất hay, nhưng cũng có khi Tự Do rất phởn. Điều bộc bạch hiển lộ nhất của thơ Tô Thùy Yên là cho dù chữ cũ hay thơ mới gì đi nữa thì thơ phải hay và thơ thì phải kiệm chữ. Điều vĩ đại cuối cùng là tài dụng ngôn của Tô Thùy Yên. Ông là một tay chơi chữ cừ khôi. Một thi sĩ xào chữ tuyệt vời đã để lại cho đời những câu thơ lừng lẫy.

“Ghé lại một trạm xăng, một hàng fast food hay một rest area
Đây là đâu?
Đây cũng là đâu đó vậy
Dấp nước đầu, cổ, mặt,
Tỉnh tỉnh lại với đời ...
Và trong những khoảnh đèn khoét đọng lẻ quạnh,
Nhìn chút đỉnh những con người,
Nhìn cuộc sống còn nửa thức, nửa ngủ.
Hỏi lại mình: Lòng ngất tạnh khuya,
Tìm đâu một chốn ấm hơi đời?”
(Đường Trường Đêm)

(Còn tiếp)

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 4: Thời xuống lỗ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

  1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
  2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
  3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
  4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
  5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
  6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
  7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
  8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
  9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)

Tác giả đang viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!

3 nhận xét:

  1. Hay quá, hôm nay mới được xem bài này của anh lần đầu!
    Cảm ơn anh Chính

    Trả lờiXóa
  2. Cám ơn anh Chính. Lần đầu biết đến tác giả Thụy Vũ. Mặc dầu nghe tên quen nhưng hình như chưa đọc tác phẩm nào của bà ấy.

    Trả lờiXóa
  3. Bài viết rất xúc tích của Nguyễn Ngọc Chính. Trước 1975 tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Nguyễn thị Thụy vũ, thật ra tôi thấy trong thời chiến tranh mà viết như thế chẳng khác nào tiếp sức cho văn hóa đồi trụy,dâm ô.Trong khi biết bao chiến sỹ VNCH đang chịu nhiều gian khổ,trong khi đất nước còn nghèo và vô tình làm cho biết bao kẻ phá hoại thêm phấn kích để tàn phá miền nam. và hậu quả là ngày 30/4/1975, tất cả là bài học về sự tự do quá trớn và không có một chính sách văn hóa văn nghệ nào rõ ràng trong thời ấy.....

    Trả lờiXóa

Popular posts