Năm 1968, tại Sài
Gòn, Nhà sách Khai Trí phát hành một cuốn sách dày hơn 150 trang với tựa đề “Tiếu lâm Việt Nam” của Cử Tạ. Ngay ở phần
Mở đầu, nhà văn cho rằng, đối với loài người, cười chẳng những là biểu hiện sự
thích thú, mà còn là thang thuốc đại bổ:
“Hỏi ai sướng nhất trên đời
Bằng người ít khóc nhiều cười hơn ai?
Sướng trên đời nhất hỏi ai
Bằng người ít khóc hơn ai nhiều cười”
Cử Tạ còn phân tích một cách sâu xa: không phải chỉ đơn thuần là “nhe răng” vì còn rất nhiều cách biểu hiện ngoài việc “hở mười cái răng”. Chẳng hạn như “cười híp mắt” (rire à gonfler les yeux) của những ông “35” mỗi khi trông thấy gái đẹp; “cười khì” (rire niais) như kiểu “Thằng Bờm khi nhận được gói xôi của phú ông”…
Cũng có thứ “cười khỉ” (rire bâtement d’une chose) khi ông chồng quay mặt cười lúc thấy vợ khoe đầu tóc mới làm ngoài tiệm trông… không giống ai! Lại có thứ “cười khúc khích” (rire sous cope) theo kiểu các nhà văn, nhà báo khoái trá khi viết xong một bài mà mình ưng ý!
Lại có những kiểu cười “thuốc độc” tựa như “bên trong nham hiểm giết người không dao” hoặc nụ cười của quý phi “nghiêng nước nghiêng thành”, “nhất tiếu thiên kim” khiến cho cả cơ đồ của nhà vua phải sụp đổ!
Riêng người Việt còn có những kiểu cười được mệnh danh là “tiếu lâm” với lối diễn tả rất bình dân nhưng lại không kém phần hóm hỉnh. Đối tượng của tiếu lâm nhắm vào đủ loại người trong xã hội, từ quan lại hắc ám, chính khách xôi thịt, cường hào ác bá cho đến hạng người mê tín dị đoan, ba que xỏ lá, đầu trộm đuôi cướp.
Thế cho nên, “tiếu lâm” nói nôm na là “cả một rừng những chuyện cười” mà qua đó người ta rút ra những bài học “để đời”. Nghe xong chuyện tiếu lâm, nhiều người lại còn thấy chuyện thì vui thật nhưng nó để lại cho người nghe một “thông điệp” nào đó để tự sửa mình.
Trong “Tiếu lâm Việt Nam” có đến gần 100 truyện cười, gồm đủ mọi đề tài trong xã hội. Từ chuyện vợ chồng, chuyện làng xã, chuyện quan lại, thầy chùa… cho đến cả trong lãnh vực văn chương chữ nghĩa. Vì khuôn khổ bài viết có hạn, chúng tôi không thể ghi lại 94 mẫu chuyện tiếu lâm trong sách nên chỉ chọn một số chuyện điển hình.
Bạn có biết sự tích của thành ngữ “chết cười” hay nói khác đi “cười chết đi được” xuất xứ từ đâu không? Theo Cử Tạ, ngày xưa có một ông nhà giàu đi chơi bị mắc mưa mà lại không mang theo ô, dù. Vốn tính bủn xỉn nên ông cởi hết quần áo để che mưa mà lại bảo vệ được quần áo.
Khi về đến nhà lại gặp bà vợ vừa tắm xong nên cũng chẳng có mảnh vải che thân. Hứng chí ông ôm bà xà nẹo. Chẳng may có một anh chàng đang đụt mưa nên thấy cảnh đó. Chúng kiến cảnh cụp lạc, anh chàng phá lên cười và bị trúng gió, chết luôn tại chỗ.
Hoảng hồn, hai vợ chồng vội lên trình lý trưởng, bị đưa lên quan huyện xét xử và bị kết án… tử hình. Một mực kêu oan, anh mới kể kẻ đụt mưa chắc chết vì thấy cảnh hai vợ chồng âu yếm nhau. Quan bắt hai vợ chồng diễn lại cảnh sexy ngay trước mắt quan và đám nha lại. Xem xong, quan cũng ôm bụng cười đến đứt ruột và qua đời!
Còn chuyện cả làng sợ vợ nói đến một ngôi làng trong đó đàn ông, từ người giàu sang đến kẻ “khố rách áo ôm”, đều mang một chứng bệnh chung là… sợ vợ. Một hôm các ông “râu quặp” họp nhau lại để bàn một chuyện tối quan trọng và cần giải quyết ngay.
Bàn tới bàn lui mà
chẳng tìm ra cách, cuối cùng một ông danh giá nhất làng phán: nên tổ chức một lễ
tế trời để báo cáo sự việc. Hội nghị sợ vợ thống nhất buổi lễ đó sẽ được cử
hành ngày 30 Tết vì khi đó các bà cón bận đi chợ Tết.
Buổi lễ được diển ra ngoài đồng với một ông cao tuổi đứng ra làm… chủ tế với đủ mọi nghi thức trang trọng. Đang lễ thì có 2 người đàn bà làng bên đi qua thấy lạ nên đứng xem. Các ông vốn đã sợ các bà nên vội vàng giải tán như ong vỡ tổ.
Chỉ có ông chủ tế và các phó tế vẫn ở lại để thi hành nhiệm vụ. Lúc sau, các ông bảo nhau quay trở lại địa điểm hành lễ để quan sát tình hình. Thì ra, ban tế lễ đều chết cóng vì sợ nên không kịp… tan hàng, di tản!
Và đây là chuyện cuối cùng tôi xin trích dẫn có tựa đề “Tướng công kỵ bà lão”. Theo tôi, bài chuyện này có liên quan đến ngày nay, các trường thường cho học sinh học “tủ” bài văn mẫu để đi thi!
Một anh học trò nghèo nên phải tìm thêm việc bằng cách làm “thợ vịn” cho một toán thợ mộc đang cất nhà cho một ông quan lớn. Thấy anh học trò mặt mũi khôi ngô nên quan mới thử xem sức học của anh đến đâu. Có một con ngựa trắng đang cột ở giữa sân, quan mới bảo anh làm một bài thơ. Lát sau, anh đã có ngay:
“Bạch mã mao như tuyết
Tứ túc cương như thiết
Tướng công kỵ bạch mã
Bạch mã tẩu như phi!”
Quan khen hay nên
thưởng cho anh một thúng gạo và vài quan tiền. Kể lại chuyện này cho đám thợ
nghe thì có một anh vốn đã dốt nhưng lại tham nên nghĩ cứ học thuộc lòng bài
thơ, sửa đổi chút ít tùy theo tình hình.
Thế là anh lên gặp quan để trổ tài “kinh sử”.
Thấy một bà cụ già đang quét sân nên quan bảo anh thử làm một bài thơ miêu tả. Thơ thì anh đã thuộc làu làu bài mẫu của anh học trò nên chỉ sửa chút đỉnh cho hợp với đề tài quan ra. Không chút suy nghĩ, anh đọc cho quan nghe:
“Bà lão mao như tuyết
Tứ túc cứng như thiết
Tướng công kỵ bà lão
Bà lão tẩu như phi!”
Thay vì cho gạo và
tiền như trước, quan “nội khí xung thiên” đánh cho anh một trận để đời. Đấy là
cái hại của bài văn mẫu mà ngày nay học trò vẫn bị thầy cô giáo… nhồi sọ!
Cuối cùng, xin góp
vào chuyện tiếu lâm ngày xưa bằng một chuyện của ngày nay: Một cuộc thi hoa hậu
đang bước vào giai đoạn gay cấn, các giám khảo đưa ra một tiết mục được gọi là “ứng
xử” để quyết định xem ai sẽ là hoa hậu trong 3 thí sinh lọt vào vòng chung kết.
Câu hỏi được đặt ra:
“Người ta thường nói phụ nữ có hai cái mồm, mồm trên và mồm dưới. Theo bạn thì mồm nào… già hơn?”
Thí sinh thứ nhất trả lời: “Theo em thì mồm dưới già hơn vì đã mọc râu!”.
Thí sinh thứ hai phản
biện: “Mồm trên trẻ hơn vì chưa bị rụng răng như mồm dưới!”.
Thí sinh thứ ba biện
luận: “Mồm trên già hơn vì đã thôi bú sữa
còn mồm dưới vẫn còn…”
Ban giám khảo điên đầu vì cả 3 câu trả lời đều chính xác và hợp lý. Cuối cùng, một kết luận được đưa ra:
“Cuộc thi năm nay sẽ không chọn một hoa hậu, thay vào đó sẽ chọn cả ba vì các cô đều xứng đáng với cách trả lời câu hòi ứng xử một cách thông minh và tuyệt vời!”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét