Hồi
Ký Ấu Oanh
***
*
Lời giới thiệu của NNC:
Một câu chuyện buồn của
hai người bạn cùng tên… Tác giả bài viết này là Ấu Oanh, nội tướng của ca nhạc sĩ Duy Trác. Ấu
Oanh khóc bạn Vũ Hoàng Oanh, hiền thê nhà văn Dương Hùng Cường (chết trong tù
năm 1987).
Khi “tốt nghiệp” cải
tạo về, tôi xin được một chân dậy lớp đêm, môn Anh văn, tại trường Lê Quý Đôn.
Cũng là một duyên may, chị Ấu Oanh và anh Duy Trác phụ trách “bán nước” tại
căng tin nhà trường nên vào giờ nghỉ chúng tôi hàn huyên tâm sự nhiều lúc khiến
anh Duy Trác quên cả việc “bán nước”…
Hôm nay tình cờ gặp
được bài viết “Khóc Bạn” của chị Ấu Oanh xin chia sẻ cùng các bạn và cũng xin
chị Ấu Oanh thứ lỗi vì đã chưa xin phép chị.
Chúng ta đọc một câu chuyện buồn về
giới văn nghệ sĩ Sài Gòn và, cũng cũng
qua bài viết này, hiện lên một mảng tối bi thương về phía các bà vợ có chồng đi
cải tạo trong thời kỳ mà tôi gọi là… Điêu Linh!
***
“Bác Dương thôi đã
thôi rồi
Nước mây man mác ngậm
ngùi lòng ta…”
Từ
thuở ấu thơ, anh em chúng tôi đều được mẹ ru bằng bài thơ Khóc Bạn của cụ Tam
nguyên Yên Đổ khóc ông cố nội chúng tôi là cụ Nghè Dương Khuê. Bài thơ trở
thành bài ca dao nằm trong ký ức tôi từ ngày đó, hơn 40 năm sau lại bật ra như
những lời nhớ thương tha thiết của tôi với người bạn thân: Vũ Hoàng Oanh. Nguyễn
Khuyến khóc Dương Khuê lúc tuổi đời đã xế chiều nên nỗi nhớ chỉ là ngậm ngùi,
còn tôi khóc bạn khi tuổi đời chưa tới 50 là cái khóc xót thương vô hạn.
Ngày
còn học Trưng Vương thì Oanh học trên tôi một lớp. Chúng tôi chỉ biết nhau
nhưng chưa phải là bạn. Mãi đến khi thi vào trường Sư Phạm, vô tình làm sao,
hai đứa trùng tên nên có số báo danh kế nhau. Gặp nhau ở trường thi, lại ngồi cạnh
nhau thì không quen cũng thành quen huống chi chúng tôi cùng là dân TV lại biết
nhau từ trước. Dĩ nhiên hai đứa tôi mau chóng kết hợp với nhau, cóp qua cóp lại
bài nhau nên kết quả là hai đứa cùng đậu và còn được xếp chung vào một lớp. Tôi
và Oanh trở thành bạn thân từ đấy.
Oanh
không đẹp nhưng dễ thương với đôi má bầu bĩnh, đôi mắt hơi đượm buồn, lúc nào
cũng như vướng vất một câu hỏi gì chưa được giải đáp. Nhưng điều mà bạn bè nhớ
nhất ở Oanh là tính tình đôn hậu, chiều bạn và tử tế với mọi người.
Đời
học trò, dẫu rằng lớp học trò này đang chuẩn bị làm người lớn, vẫn có biết bao
niềm vui nỗi buồn non trẻ để chia sẻ cùng nhau. Đôi khi thấy bạn bè có người
yêu đến đón hoặc ghé thăm, đôi mắt hỏi han của Oanh chợt tối lại, vương một
chút buồn bã. Tôi gạn hỏi, Oanh chỉ lắc đầu, nhiều lần sau nữa, chẳng đặng đừng,
Oanh cười mỉm chi đáp “Nhớ bồ” “Thế bồ đâu rồi” “Bồ thuộc người khác rồi”,
rồi nhanh chóng Oanh lảng ngay “Thôi khỉ ạ,
đừng hỏi nữa, chuyện xưa rồi”.
Thời
gian trôi thật nhanh. Gần đến ngày ra trường, chúng tôi gấp rút học thi và ráo
riết chuẩn bị các bài thi thực tập. Một hôm, gặp phải bài thi hóc búa, tôi hỏi
mượn Oanh một bài mẫu vì Oanh rất chăm chỉ trong việc sưu tầm các bài dạy mẫu,
còn tôi là con cháu họ lười nên rất chểnh mảng. Oanh đang hí hoáy viết nên bảo “Mở cặp ra, ngăn bên trái đó”. Tôi mở cặp
lục lọi. Bài mẫu chẳng thấy đâu, tôi vớ ngay được một lá thư. Quên béng ngay
bài dạy, tôi len lén kéo nhẹ tờ thư ra khỏi bao và liếc thật nhanh vài giòng.
“Ồ, thư tình”, tôi thầm kêu trong đầu.
Vừa lúc đó Oanh quay sang, thấy vậy, Oanh vội vã quăng ngay cây bút, xoài người
giựt lại lá thư, miệng la bài hải “Ố́í, ối,
trả đây, trả đây”. Lá thư không dài và cũng không có những lời lẽ yêu đương
hoa mỹ nhưng đọc thì biết ngay đó là thư tình, thư tình cuả một nhà văn. Ngôn
ngữ, nhất là ngôn ngữ cuả một người viết văn thì có muôn ngàn cách để bày tỏ
tình yêu. Tôi mừng thấy bạn bẽn lẽn cất lá thư. Một chút ửng hồng trên đôi má bầu
bĩnh… Từ đó tôi thấy Oanh hay cười hơn.
Trong
khi chờ đợi kết quả sắp hạng ra trường, chúng tôi phải đi khám sức khoẻ tại Bệnh
viện Chợ Rẫy. Hôm đó Oanh chở tôi bằng chiếc Vélo Solex mượn được. Chỉ còn cách
bệnh viện khoảng 100m thì bất ngờ xe đang chạy ngon trớn bỗng đâm xầm vào một đống
đá xanh đổ ngay giữa lòng đường. Xe mất thăng bằng đổ ập xuống, quăng hai đứa
chúng tôi ra hai nơi.
Lúc
đó tôi đang có thai cháu đầu lòng khoảng 4 tháng. Hốt hoảng, Oanh bật dậy lao
ngay về phiá tôi mà không thấy rằng 1 đầu gối quần bị rách để lộ vết thương rướm
máu và 1 bàn tay bị đá xanh đâm nát máu thấm đỏ cả. Oanh lính quýnh ôm nâng tôi
dậy, mặt tái mét, miệng líu lại “Oanh,
Oanh có sao không? Có đau bụng không?” Tôi tuy cũng rất lo sợ cho cái thai
nhưng thấy Oanh quá lo lắng cho tôi, tôi thấy lòng cồn cào thương bạn nên vội
trấn an “Mình không sao, đừng lo. Thôi
mau nhấc xe dậy, vào ngay bệnh viện nhờ họ băng bó cho Oanh”.
Ra
trường, tôi về̀ dạy ở Gia Định, còn Oanh xuống Biên Hoà. Như một sui khiến cuả
số mệnh, người yêu cuả Oanh, nhà văn Dương Hùng Cường, còn có bút hiệu là Dê
Húc Càn đồng thời là một quân nhân cũng đang làm việc tại phi trường Biên Hoà.
Họ đã được gần nhau, cuộc tình dẫn đến kết cuộc tốt đẹp là cái đám cưới vào năm
1964.
Năm
sau, 1965, Oanh sinh cháu đầu lòng Dương Mạc Thi rồi tiếp theo Oanh sinh liền 7
cô công chúa trong vòng 10 năm. Khi anh Cường đổi về làm việc tại Sài gòn thì
Oanh cũng được thuyên chuyển về dạy học taị trường Hồng Bàng (sau năm 1975 thì
dạy tại trường Hùng Vương, cùng thuộc quận 5). Chúng tôi lại có dịp gần gũi
nhau.
Vào
khoảng năm 74 tôi thấy Oanh ngoài giờ dạy ở trường công còn dạy thêm ở 2 trung
tâm tư nữa. Thấy tôi thắc mắc sao Oanh dạy quá nhiều, không còn thời giờ dành
cho các con nữa thì Oanh tâm sự:
“Ông Cường
giành phần chăm mấy đứa nhỏ. Ông ấy bảo, ổng ru con hay hơn mình”, rồi Oanh
xuống giọng, “Mình phải dạy thêm lấy tiền
cho ông Cường in truyện”.
Nói
là chăm sóc con chứ thật ra thì lúc đó gia đình nào cũng có người giúp việc, lo
cơm nước, giặt giũ, bế bồng trẻ nhỏ rồi. Tôi thông cảm với Oanh vì thời gian
đó, lương hai vợ chồng gom lại, dẫu rằng anh Cường còn viết báo thêm cũng chỉ đủ
chi tiêu cho một gia đình mười mấy miệng ăn mà thôi. Muốn in sách truyện, Oanh
phải cật lực giúp chồng. Thế là bao nhiêu tiền bạc dành dụm được đều đổ dồn vào
việc cho ra đời đứa con tinh thần “Vĩnh
biệt Phượng”.
Thương
thay, sách vừa xuất xưởng, chưa kịp phân phối ra ngoài thì ngày 30 tháng 4 như
một cơn cuồng phong ập đến, xoá tan hết bao ước mơ, bao xây đắp cuả cả một miền
Nam thân yêu trong đó có 2 gia đình chúng tôi.
Ông
xã tôi cũng như anh Dương Hùng Cường đều trở thành tù nhân cuả chế độ mới và 2
gia đình chúng tôi trở thành những nạn nhân như trăm ngàn gia đình quân nhân
công chức chế độ cũ, luôn luôn bị soi mói, rình rập, theo rõi, lúc nào cũng sống
trong phập phồng, lo lắng, sợ sệt…
Với
đồng lương chết đói, chúng tôi vẫn phải cố bám vào trường lớp để khỏi phải bị
đuổi đi vùng kinh tế mới. Hai đứa tôi cùng chia nhau cái ngậm ngùi cuả số phận.
Oanh 7 con và tôi 6, gia tài chỉ là hai bàn tay trắng với cõi lòng đầy ắp âu
lo. Chúng tôi càng gắn bó với nhau hơn. Hai đứa lăn lưng ra làm đủ mọi việc
Thoạt
đầu là bán sách. Lúc bấy giờ chủ trương cuả chế độ mới là thiêu hủy hết số sách
báo của miền Nam được gọi là văn hoá đồi truỵ, tàn dư Mỹ ngụy. Chúng tôi lại
thuộc các gia đình văn nghệ sĩ, càng bị để ý, bị lục xoát thường xuyên hơn. Nếu
trái lệnh sẽ bị ghép vào đủ thứ tội tình.
Để
được yên thân nuôi con và cũng là để che mắt thế gian, chúng tôi gom góp hết số
“tàn dư Mỹ ngụy” trong nhà, nhờ người quen dẫn giắt lên chợ sách Nguyễn Huy Thiệp
bày bán. Nhìn những cuốn sách mình từng nâng niu yêu quý từ từ đội nón ra đi,
lòng tôi bùi ngùi khôn tả. Cầm cuốn “Chạy
trốn Tự do” mà ông xã tôi mới dịch trước đó không lâu, tôi thầm tự hỏi: “Tại sao laị dịch cuốn sách mang cái tên oan
nghiệt này?”
Cuốn
“Vĩnh Biệt Phượng” cuả anh Dương Hùng
Cường cũng cùng chung số phận, phơi mặt trên 1 tấm ni lông trải dưới mặt đường
con phố NHT. Tôi và Oanh thủ 2 cái nón rộng vành, hễ liếc xa xa thấy người quen
kẻ thuộc hay bạn bè gần xa cuả chồng thì lập tức cái nón được kéo sụp xuống. Ôi
thời thế có ai học đến chữ ngờ!
Một
hôm vào khoảng xế trưa, hai đứa đang ngồi vêu ra thì một cháu gái của Oanh đạp
xe lên tìm mẹ, báo tin em bé út vừa phải vào nhà thương. Khi đó cháu Dao Tiên mới
non 1 tuổi. Oanh hốt hoảng ra về. Hôm sau, rồi hôm sau nữa cũng không thấy Oanh
lên tôi đoán chắc Oanh phải ở trong bệnh viện với con. Ba, bốn hôm sau Oanh trở
lại, cặp mắt còn sưng, oà khóc, nói “Oanh
ơi, cháu Dao Tiên mất rồi. Cháu mất vì thiếu dinh dưỡng, vì đói ăn đó Oanh ạ!”.
“Nghề”
bán sách cuả chúng tôi do thời cuộc mà tự sinh thì cũng do thời cuộc mà tự diệt.
Ch́úng tôi học quấn thuốc lá, vào bao rồi đem vô Chợ Lớn bán nhưng cũng chẳng
được bao lâu thì chợ thuốc lá cũng bị càn quét. Tôi nhờ biết may vá từ nhỏ nên
quay ra may quần áo con nít đem giao các chợ, còn Oanh thì đi bỏ mối bánh kẹo
cho các căn tin trường học. Cứ thế, chúng tôi lần hồi sống qua ngày.
Ngoài
lúc đi kiếm cơm, chúng tôi còn rủ nhau đi kiếm chồng tù. Hai năm trời biền biệt
không chút tin tức, chúng tôi lo sợ cho số phận các ông chồng. Dò la, thăm hỏi
chẳng có kết quả, chúng tôi đánh bạo rủ nhau lên tận ban Quân quản Thành phố để
hỏi han. Câu trả lời cũng chỉ như bao nơi khác: “Cứ yên tâm chờ đợi”.
Cuối
cùng thì cuối năm 1977 cũng có tin về sau hơn 2 năm kể từ ngày các sĩ quan của
chế độ cũ nghe lời đường mật “Chuẩn bị đồ
ăn uống và vật dụng cá nhân trong vòng 10 ngày để đi trình diện”. Ông xã
tôi bị nhốt ở trại Hàm Tân, còn anh Cường thì ở Long Khánh. Cứ 3 tháng chúng
tôi được phép thăm nuôi tiếp tế thức ăn và thuốc men 1 lần. Hai đứa lại có dịp
chỉ bảo nhau làm món gì để được lâu, thuốc nào cần nhất v..v.. để mang lên trại.
Tôi
còn nhớ thời gian đó, mỗi chiều tối, sau giờ tan trường, Oanh thường ghé tôi,
có khi ở đến tận khuya. Các con Oanh ở nhà đã có cô cháu gái mà Oanh cưu mang từ
sau năm 75 chăm nom cơm nước. Chúng tôi ngồi bên nhau chia sẻ mọi điều. Tôi hiểu
Oanh nhiều nỗi lo lắng vì nợ nần thúc giục mà không có phương cách giải quyết.
Tôi đỡ hơn Oanh một chút là tôi còn có mẹ. Đôi khi hai đứa ngồi bên nhau hàng
giờ mà chẳng nói với nhau một tiếng nhưng chúng tôi đều hiểu rằng chúng tôi
đang chia nhau nỗi sầu khổ âm thầm.
Một
hôm, khoảng sau Tết năm 1978, Oanh ghé tôi theo lệ thường, nhưng hôm đó vẻ mặt
Oanh rất bần thần, ngồi hoài không nói. Tôi hỏi:
-
Hôm nay Oanh có chuyện gì không mà như mất hồn vậy?
Oanh
vẫn ngồi yên không nói. Tôi đứng dậy rót cho bạn 1 ly nước, đến ngồi gần bên ân
cần:
-
Có việc gì hả Oanh?
Sau
một phút ngập ngừng, Oanh nói khẽ thật khẽ như sợ có ai nghe thấy:
-
Ta nói cái này, đừng giật mình nhé…Mình có bầu.
Tôi
giật thót mình, hai lỗ tai lùng bùng.
-
Oanh nói gì? Ai có bầu?
-
Mình.
-
Hả?
-
Mình có bầu thật đấy, vừa đi khám bác sĩ về xong.
Tôi
trân trối nhìn Oanh, vẫn không tin ở hai tai mình. Biết vậy, Oanh mới tỉ tê
khai:
-
Hôm Tết rồi đi thăm ông Cường, trại cho ở lại một đêm…
Tôi
thở phào như trút được cho chính mình gánh nặng nghìn cân. Oanh nói tiếp:
-
Oanh ơi, dẫn mình đi phá đi, mới được khoảng hai tháng thôi, phá chắc dễ.
Tôi
ngỡ ngàng hỏi lại:
-
Phá? Sao lại phá?
-
Chứ để thì làm sao coi được. Ai đời cô giáo có chồng đi tù mà lại mang bầu. Đâu
có ai hiểu…
-
Thì nói ra cho mọi người biết.
-
Ai tin? Bạn bè, rồi còn học trò nữa chứ. Eo ôi, nghĩ đến là ta rùng mình rồi.
Tôi
chợt thấy Oanh có lý. Ừ, ai mà tin nổi, nhất là thời buổi này. Toàn ban giám hiệu
đều là người cách mạng, họ sẽ có cớ để bêu riếu, để bôi tro trát trấu lên đầu
lên cổ vợ con “thằng ngụy”. Tôi thở dài:
-
Ừ, để mình tính xem.
Nói
vậy cho Oanh yên lòng chứ thật ra tôi cũng chẳng biết tính làm sao. Tối đến,
trong bữa cơm gia đình, tôi nói chuyện với mẹ tôi về việc Oanh muốn tôi chia sẻ.
Mẹ tôi bảo:
-
Ngày mai Oanh có ghé, con gọi mẹ, mẹ hỏi cô ấy một tí.
-
Mẹ hỏi gì hả mẹ?
-
Có phải Oanh toàn con gái không?
-
Vâng, 7 đứa, bỏ 1 còn 6, toàn là gái cả.
-
Mẹ muốn tính xem lần này có bầu, Oanh sẽ sinh trai hay gái.
-
Trai hay gái thì thay đổi được gì hả mẹ. Cũng bia miệng mà thôi.
-
Mình sẽ nghĩ cách giùm cô ấy. Vả lại, vì sợ bia miệng mà phá bỏ đi một đứa con
cuả mình thì sẽ mang tội con ạ.
Mẹ
tôi đặc biệt có một cách tính rất tài tình để biết người mẹ sẽ sinh trai hay
gái. Cụ có dạy cho tôi một bài toàn chữ Hán, tôi học mãi không thuộc (vì mình
có biết tí teo chữ Hán nào đâu). Tôi đã chép vào 1 cuốn sổ để dành nhưng qua hết
đợt bố ráp này đến đợt bố ráp khác nó đã không cánh mà bay. Dẫu rằng cả Oanh và
anh Cường đều không mang tư tưởng “nhất
nam viết hữu, thập nữ viết vô” nhưng cha mẹ nào mà chả mong ước mình có đủ
cả trai lẫn gái. Sau khi gặp mẹ tôi, Oanh mừng lắm, không còn nghĩ đến việc phá
thai nữa vì tin tưởng rằng lần này sẽ sinh được một quý tử.
Thông
thường, cứ mỗi đầu tháng, các giáo viên chúng tôi đều phải họp toàn trường để
kiểm điểm công việc dạy và thực hiện các chỉ thị của Phòng hoặc Sở giáo dục.
Tôi xúi Oanh trong phiên họp kỳ này lấy cớ báo cáo 1 công việc gì đó rồi bôi mặt
cám ơn nhà nước đã cho chúng tôi được gặp mặt, tiếp tế cho chồng ở trại giam lại
còn gia ân cho ở lại trại 1 ngày 1 đêm nhân dịp Tết vừa qua nữa.
Việc
đó quả nhiên hiệu nghiệm. Oanh tuy bị trêu chọc song đã thoát được cơn hiểm
nguy. Cũng may mắn cho Oanh, chỉ vài tháng sau khi cái bụng bầu của Oanh lộ rõ
thì anh Cường được về.
Một
hôm tôi vừa từ chợ về nhà thì đã thấy anh Cường ngồi đợi. Không kịp để tôi hỏi
han câu nào, anh đã vào đề liền:
-
Oanh sinh rồi chị, ở Bệnh viện Hùng Vương, con trai.
-
Ồ, chúc mừng anh. Chắc là Oanh vui lắm. Kỳ này hai ông bà có quý tử, phải ăn mừng
thôi.
Không
trả lời câu nói đuà của tôi, anh chìa ra mảnh giấy cỏn con nói:
-
Oanh gửi chị cái này.
Tôi
vội vàng mở mảnh giấy đọc: “Oanh ơi, cứu
bồ, cho mình mượn 50 đồng để đóng tiền bệnh viện nhé”.
Tôi
vừa đi giao hàng về nhưng cũng chỉ có trong tay 30 đồng. Tôi vội vã đạp xe lại
ngay nhà chị bạn cùng trường. Tuy chẳng giầu có gì nhưng chị tương đối khá giả
hơn chúng tôi vì những tháng ngày xa xưa trước 75, chị là con kiến biết lo xa,
ki cóp mua vàng để dành, (trong khi tôi lại là con ve, kêu ra rả hết mùa hè, chỉ
biết rong chơi ca hát, cho nên khi đông về thì đói rã răng). Chị lại có lòng tốt
nên bạn bè khi cơ nhỡ chị đều sẵn sàng san sẻ.
Trao
cho anh Cường năm chục bạc xong, tôi biết ngày mai không có tiền chợ cho con
song trong lòng vẫn vui vì mừng cho bạn, càng mừng hơn vì thấy cách tính của mẹ
tôi thật chính xác, không làm cho Oanh mừng hụt. Nhưng người mừng nhất ắt hẳn
là anh Dương Hùng Cường. Anh đặt tên cho cháu là Phụng Hoàng, Dương Phụng
Hoàng, con chim quí.
Khoảng
3,4 năm sau khi ra tù, anh Cường liên lạc được với nhà văn Trần Tam Tiệp đang
cư ngụ tại Pháp xin lên tiếng kêu gọi Văn Bút Quốc Tế can thiệp và giúp đỡ cho
một số các gia đình văn nghệ sĩ Miền Nam còn kẹt lại quê nhà, đang gặp rất nhiều
khó khăn cả về 2 mặt vật chất lẫn tinh thần.
Ít
lâu sau đó, mỗi năm gia đình chúng tôi nhận được từ 1 đến 3 thùng thuốc tây gửi
từ Pháp về (nhưng có lẽ đó là do chính tiền cuả anh TT Tiệp, chứ không phaỉ cuả
VBQT). Song song với thùng quà đôi khi còn có cả 1, 2 tờ báo Kháng Chiến nữa. Rồi
anh bảo anh em bên nhà viết bài gửi sang.
Những
thùng quà tuy ít ỏi này cũng đã giúp được gia đình chúng tôi qua những cơn vô
cùng bĩ cực. Nhưng oan nghiệt thay, cũng chính những thùng quà này lại đưa chồng
tôi, Khuất Duy Trác, anh Dương Hùng Cường và một số các văn nghệ sĩ khác như
các nhà văn Dzoãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải Thuỷ, Hiếu Chân, các nhà thơ Lý Thụy Ý, Trần
Ngọc Tự… vào tù lần thứ hai.
Bọn
Công an thành phố còn viết nguyên một cuốn truyện đầy tính bịa đặt và vu cáo có
tên “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút”,
hòng bôi bẩn và hạ giá nhóm văn ngệ sĩ trên, sửa soạn dư luận cho một bản án thật
nặng nề. Chúng đem giam một số tại nhà giam Chí Hoà, số còn lại tại trại giam
Phan Đăng Lưu, có ông xã tôi và anh Cường. Oanh và tôi lại có cùng một địa chỉ
để tới lui. Số phận chúng tôi cứ gắn chặt với nhau trong những hoàn cảnh nghiệt
ngã như vậy.
Do
từ việc bỏ bánh kẹo cho các căn tin trường học, Oanh lần hồi biết được cách thức
để đấu thầu toàn bộ cả căn tin cuả mỗi trường. Oanh rủ tôi làm công việc này.
Thế là hai chúng tôi cùng khởi sự tại một ngôi trường Tàu trong Chợ Lớn. Sau
này rành rẽ rồi thì mỗi đứa làm ở mỗi trường khác nhau.
Cứ
vào cuối mỗi năm học, giáo viên các trường đều phải điều chỉnh lại tờ lý lịch
đã khai từ những ngày đổi đời 30/4/75. Năm 1980, con gái thứ hai cuả tôi đi vượt
biên, tôi không khai. Đến khi ông xã tôi bị bắt lại lần 2 tôi cũng không khai.
Ban giám hiệu nhà trường chắc hẳn không biết nên tôi vẫn được yên thân.
Bất
ngờ, vào đầu năm 87, hiệu trưởng mời tôi lên nói chuyện. Bà hỏi han tôi về tình
hình gia đình, chồng con, công việc v..v.. và cuối cùng bà hỏi tôi có “up to
date” lý lịch đầy đủ cho mỗi năm không. Tôi manh nha thấy điều gì đó không ổn.
Tuần lễ sau tôi xin nghỉ bệnh và tuần kế tiếp tôi tống tiếp lá đơn xin thôi việc.
Ở
thời điểm này, chiến dịch tống khứ gia đình vợ con tù cải tạo đi kinh tế mới đã
chấm dứt vì hoàn toàn thất bại. Từ các vùng kinh tế mới, biết bao gia đình đói
rách tả tơi, bệnh hoạn, người sống kẻ chết, lũ lượt kéo về thành phố, nằm la liệt
tại các công viên, chợ, nhà thờ, chùa… chính quyền không thể xua đuổi vì họ
không còn nơi chốn để dung thân nữa. Do đó tôi không còn lo sợ vì phải lên rừng
lập nghiệp. Lại nữa, tống khứ đi được một con vợ “ngụy”, cũng nhẹ gánh lo cho
ban giám hiệu nên họ nhận đơn mà không hỏi han gì cả.
Thời
gian này rộ lên rất nhiều tin tức về việc Mỹ sẽ đón các sĩ quan QLVNCH bị tù cải
tạo. Tuy rằng chỉ là tin đồn miệng, chẳng có một nguồn xác thực nào nhưng chúng
tôi vẫn cứ nuôi hy vọng trong lòng để tiếp tục sống và tiếp tục chịu đựng.
Một
ngày đầu tháng 12 năm 1987, lúc đó khoảng 2-3 giờ trưa tôi đang ở nhà thì cô
cháu gái cuả Oanh đến, mặt mũi phờ phạc, nói như đứt hơi: “Cô ơi, chú Cường mất rồi, cô con đang xỉu ở nhà, cô xuống mau đi cô”.
Khi
tôi bước chân vào đến nhà thì thấy Oanh đang vật vã vừa khóc vừa gào: “Tôi không sống một mình đâu, trời ơi là trời”.
“Anh Cường ơi, em không sống một mình
đâu” !! Tôi ôm lấy tấm thân gầy guộc của bạn, lòng đau xót từng cơn và nước
mắt cứ mặc tình tuôn chảy… Không biết bao lâu sau, khi kêu gào đã quá mệt, tôi
đỡ Oanh nằm xuống giường rồi bảo với các con Oanh: “Để yên cho mẹ nghỉ một chút”.
Hàng
xóm xung quanh nghe tiếng khóc, vài ba người lấp ló ngoài cửa. Bình tâm trở lại,
tôi hỏi thăm cháu Linh, cháu tỉ tê kể: “Sáng
nay cháu ở nhà, công an khu vực tới đòi gặp mẹ. Cháu bảo mẹ đang dạy ở trường,
anh ấy nhắn bảo mẹ ra phường gấp có giấy báo cuả bố”. Khi cháu ra trường bảo
cho mẹ biết thì mẹ vẫn nghĩ là tin mừng. Mẹ bảo “Chắc bố được thả… ồ, hay là… Mỹ đón”. Mẹ bảo cháu về trước, chuẩn
bị đồ vest cho Bố. Đến khi hai mẹ con ra đến phường nhận giấy mới vỡ lẽ… Họ bảo
sáng ra đến giờ tập họp, không thấy bố ra, đến đập cửa phòng cũng không thấy bố
cháu trả lời, họ mở khoá ra thì thấy bố cháu đã mất rồi.
Oanh
được phép đến trại giam Phan Đăng Lưu để nhận diện xác chồng trước khi được
phép chôn cất. Đám tang phải làm gấp ngày hôm sau và chỉ cho 2 người mang áo
quan vào lấy xác tại khám Chí Hoà mà thôi. Hôm sau tôi đi cùng với Oanh nhưng
phải ngồi chờ ngoài gốc cây trước cổng trại cùng với các con nhỏ của Oanh. Số bạn
bè và họ hàng thân thuộc đến đưa tiễn đều không được tập trung một nơi mà phải
phân tán rải rác dọc theo con đường Hoà Hưng, chờ đợi khi xe tang ra đến đầu đường
rồi mới được tháp tùng theo.
Ôi,
quân Cộng sản sao mà độc ác. Người sống chúng không tha đã đành, người chết
chúng cũng không cho chôn cất tử tế… Huyệt mộ đã lấp lại rồi nhưng Oanh vẫn đứng
trơ trơ như một bức tượng. Nước mắt đâu? Có lẽ nó đã chảy ngược vào lòng. Tôi
chợt nhớ đến bài thơ “Đi nhận xác chồng”
của Lê Thị Ý:
“Mùi hương cứ tưởng
hơi chồng
Ôm mồ cứ tưởng ôm
vòng người yêu”
Thật
tội nghiệp cho bạn tôi. Cũng thật tội nghiệp cho những người phụ nữ trót sinh
ra trong thời đại chúng tôi.
Vết
thương tang chồng chưa ngưng chảy máu thì 3 tháng sau Oanh lại phải rứt ruột đẩy
đứa con gái đầu lòng thân yêu, Dương Mạc Thi, ra đi trong một chuyến vượt biển
với bao bất trắc chờ đợi. Than ôi, đó cũng là lần cuối cùng Oanh nắm đ̣ược bàn
tay nhỏ bé cuả con: chuyến tàu chở cháu Thi đã không bao giờ tới bến. Chỉ trong
vòng 4 tháng Oanh đưa hình hai người thương yêu nhất đời mình lên chùa…
Rồi
giòng đời lại tất bật trôi đi. Oanh vội vã bịt kín những vết thương, dấu chặt
nó vào tận cùng trái tim để ngày ngày phải đối mặt với những cam go cuả cuộc sống,
với tương lai của bầy con còn lại. Thời gian sau này chúng tôi ít gặp nhau hơn
vì mỗi đứa thầu riêng mỗi trường mà công việc thì quá đa đoan, tất bật, cần đến
rất nhiều thời gian, Oanh lại vẫn theo đuổi công việc dạy học.
Mùa
hè năm 1989, giữa chúng tôi có vài chuyện không vui, tôi giận Oanh. Biết mình
không đúng, xin lỗi tôi không xong, Oanh nhờ một cô bạn khác đến năn nỉ, tôi vẫn
gan cùng mình không chịu làm hòa. Gần 2 tháng trời chúng tôi không gặp nhau.
Một
buổi trời đã chạng vạng tối, một anh bạn tù cuả ông xã tôi, hốt hoảng đến báo
tin Oanh bị đụng xe, đã đưa vào bệnh viện Trưng Vương, nhưng tình trạng hình
như không được ổn. Tôi tức tốc vào thẳng nhà thương trong tâm trạng rối bời và
thật hồi hộp.
Oanh
nằm đó, bất động, đôi mắt đã khép lại vĩnh viễn… Tôi bật lên khóc nức nở, nắm lấy
tay bạn, sờ lên mặt bạn, vuốt trên người bạn, tôi muốn gào lên “Oanh ơi. Oanh ơi, mình đây, mình đang ở bên
Oanh đây, mình không còn giận Oanh nữa đâu, tỉnh dậy đi Oanh ơi “!!!
Tôi
đưa tay bứt mớ tóc trên đầu xem mình có thật sự tỉnh không, có phải đây là sự
thật không… Nỗi hối hận trong tôi trào lên, tôi giận tôi, tôi ghét tôi, tôi là
con bạn tồi, sao tôi cố chấp thế… Tuy đã cố dằn vì chỗ đông người, cổ họng tôi
vẫn bật lên tiếng gọi “Oanh ơi. Oanh ơi.
Dậy đi, mình thương Oanh lắm, có nghe mình nói không?”
Tôi
ngồi bên Oanh như thế, nước mắt tiếp tục chảy không thôi, biết bao điều muốn vuột
ra khỏi trái tim nên lồng ngực đau thắt….. Lâu lắm, chợt nghe tiếng bà dì Oanh
nói “Cô phụ tôi thay quần áo cho Oanh
nhé. Người bây giờ còn mềm, thay dễ “.
Tôi
nâng đầu Oanh dậy tay chạm ngay vết thương sau ót, máu còn dính bết vào tóc. Đến
lúc thay áo lại phát hiện ra phần dưới cũng bị thương, hình như vỡ xương hông
thì phải. Ôi, đau đớn biết bao!
Mãi
sau này các cháu con Oanh mới kể rằng, sáng hôm đó, một cậu nhỏ mới quen đến chở
Oanh về Thủ Đức để đi hỏi vợ giùm cho cậu ta. Buổi chiều, trên đường về, đã gần
đến nhà, đang băng qua con lộ Lý Thường Kiệt để vào ngõ thì bị một xe hơi do
người tài xế say rượu đâm phải.
Oanh
là thế đấy, hay làm chuyện bao đồng để giúp người .
Oanh
mất đi bỏ lại bầy con 5 đứa. Con chim quý, Phụng Hoàng, của vợ chồng Oanh sinh
bất phùng thời, mới 10 tuổi đầu đã mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nhưng như một định luật
bù trừ, hai con lớn cuả Oanh tiếp tục công việc cuả mẹ, không những đã duy trì
được mức sống đầy đủ cho gia đình mà các cháu còn dìu giắt nhau học hành tới
nơi tới chốn nữa. Nếu người ta tin có linh hồn thì chính linh hồn người Mẹ, day
dứt lúc ra đi đã quay trở lại thế gian này để phù trợ cho các con vươn lên
trong cuộc sống.
Hôm
nay ngồi viết những giòng hồi tưởng này về một phần đời không nhỏ của bạn tôi,
Vũ Hoàng Oanh, người phụ nữ tâm tính hiền lành, hay giúp đỡ người khác nhưng số
phận cay nghiệt đã dành cho cuộc đời bao tang thương, oan trái. Khi sống, tâm
tư luôn mòn mỏi vì lo toan cơm áo, còn mang nặng những vết thương không cơ hàn
gắn. Đến lúc lià đời, lại ra đi trong một cơn mê khốc liệt với thân thể đớn
đau, với cõi lòng đứt đoạn vì bầy con thơ dại.
Oanh
ơi, những giòng hồi ức hôm nay cũng còn là những nén hương muộn màng mình thắp
lên để nhớ đến Oanh, nhớ đến một quãng đời hai chúng ta cùng chung bước trải
dài từ tuổi học trò cho đến khi vĩnh biệt.
“Ngủ đi Oanh, hỡi bạn
hiền,
Ngủ cho say nhé, triền
miên giấc nồng
Chuông chùa vọng giữa
thinh không
Đưa hồn an lạc về
vùng tịnh yên”.
***
Hai
mươi năm, ngày giỗ bạn
21/6/1989
– 21/6/2009
Ấu
Oanh
***
đoc hết bài tôi đã rơi nuoc mất.
Trả lờiXóa