Thứ Tư, 16 tháng 7, 2014

Tình nghĩa thầy trò

Ai cũng có một thời đi học. Và chắc hẳn ai cũng có ít nhiều kỷ niệm về thầy cô đã một thời gắn bó với cái thuở học trò của mình. Cũng là lẽ thường tình, học trò nhớ về thầy cô nhiều hơn thầy cô giữ những kỷ niệm với học trò vì thầy cô có đến hàng ngàn học sinh trong khi học trò chỉ được học với độ vài chục thầy cô trong suốt quãng đời… “nhất quỷ nhì ma…”.

Thầy cô thời Tiểu học là quãng thời gian quá xa nên họa hoằn lắm mới còn lưu lại trong ký ức… nhưng thầy cô thời Trung học lại đủ gần để học trò nhớ mãi dù bản thân học trò nay tóc đã điểm sương. Tuy vậy, tôi vẫn còn nhớ mãi cô giáo đầu tiên năm Lớp Năm, tức Lớp 1 ngày nay.

Cô có một cái tên rất lạ nhưng lại khó quên: Huỳnh Bá Thiên Vân. Dòng họ Huỳnh Bá vốn gốc từ Huế nhưng có một số người “di dân” vào Đà Lạt còn tôi là chú “Bắc kỳ con” theo bố là Ngự Lâm Quân vào Đà Lạt năm 1953, trước khi có cuộc di cư vĩ đại của người miền Bắc sau đó một năm.

Cô Huỳnh Bá Thiên Vân là cô giáo đầu tiên của tôi tại Tiểu học và hi hữu hơn nữa, em của cô, Huỳnh Bá Tuệ Dương, lại là người bạn trong năm cuối cùng Trung học của tôi  tại trường Trần Hưng Đạo. Tuệ Dương là một trong những người đầu tiên có cây đàn điện Fender tại Đà Lạt và anh sẵn lòng để tôi sử dụng trong ban nhạc của trường.

Cô Vân dậy Lớp Năm trường Nam tiểu học Đà Lạt trên đường Đoàn Thị Điểm gần khu Hòa Bình. Tôi nghĩ có lẽ tôi là “học trò nổi bật” giữa các bạn cùng lớp nói rặt tiếng Nam nên được cô Vân… “để ý”! Thêm vào đó, tôi học cũng thuộc loại… “giỏi” nên tháng nào cũng được cô cho “Bảng Danh Dự”.

Cho tới bây giờ tôi vẫn tự hỏi mình có học giỏi thật hay là cô “cưng” nên mới có “Bảng Danh Dự”? Cũng may tôi còn giữ được tấm hình đầu đội mũ berret, mặc áo len cổ lọ có dòng kẻ nhạc trên ngực và trên tay cầm “Bảng Danh Dự” để làm bằng chứng kẻo lại mang tiếng… khoe khoang:   
   
 Học trò “cưng” của Cô Vân

Việc tôi chuyển trường từ Nam tiểu học Đà Lạt sang trường Đa Nghĩa rất “ly kỳ” vì lý do  ông anh tôi quyết luyện cho tôi… “học nhẩy”! Xin đừng nghĩ xấu: mới nứt mắt mà đã nhảy với nhót! 

Số là ông anh lớn, hơn tôi tới 10 tuổi, bỗng nảy ra ý định cuối năm học Lớp Ba sẽ luyện để tôi vào học Lớp Nhất, bỏ qua Lớp Nhì. Dĩ nhiên không thể nhẩy từ Lớp Ba lên Lớp Nhất trong cùng trường nên phải xin vào trường Tiểu học Đa Nghĩa. Trường nằm khá xa trung tâm thành phố nhưng vẫn thuộc 7 trường sơ học công lập gồm trường Nam  Đà Lạt, Nữ  Đà Lạt, Xuân An, Tây Hồ, Đa Nghĩa, Đa Thành và Đa Phước.

Cũng vì ở xa nên buổi trưa phải ở lại trường, ăn cơm mang theo trong chiếc “gà-mên”, để đến chiều còn tiếp tục học. Tuy nhiên, đó cũng là cơ hội để tôi được gần gũi với thầy Châu cũng phải ở lại trường vì nhà thầy ở tận khu Chi Lăng, gần trường Võ Bị. Nếu tôi không lầm thì tên cũ của Chi Lăng là Saint Benoit khi người Pháp còn ở trên đất Hoàng triều Cương thổ.

Thầy Châu có con cùng học Lớp Nhất với tôi nên buổi trưa cả ba thầy trò cùng ngồi ăn chung. Tuy không học thầy nhưng tôi vẫn cảm thấy gần gũi với thầy như một người cha vì thầy ngoài việc chỉ bảo thêm về việc học lại còn kể những câu chuyện rất thú vị. Với tôi, thầy là cả một kho kiến thức không bao giờ cạn.

Cuối năm Lớp Nhất phải thi Tiểu học và tôi bị… đánh trượt vì bài văn nghị luận! Đề thi yêu cầu bình luận câu “Giàu đâu những kẻ ngủ trưa / Sang đâu những kẻ say sưa tối ngày”. Đầu óc non nớt của cậu học sinh Lớp Nhất khiến tôi lý luận: những kẻ ngủ trưa mới giàu, còn những kẻ say sưa mới... sang! Thế là năm đó tôi bị ở lại lớp. Mang tiếng là “học nhảy” nhưng rốt cuộc cũng học 2 năm Lớp Nhất!     

Tôi bắt đầu vào Trung học tại trường Trần Hưng Đạo Đà Lạt, học 2 năm Đệ Thất và Đệ Lục. Phải nói số tôi “may mắn” khi được các cô giáo… “thương” từ Tiểu Học cho đến những năm đầu Trung Học. Trong số các giáo sư có cô Thủy, mới ra trường, dạy môn sử các lớp Đệ nhất cấp. Cô Thủy là người tôi nhớ nhất vì mỗi khi cô đọc cho cả lớp chép bài cô chỉ đọc mỗi câu một lần và sau đó là điệp khúc… “Chính nhắc lại”!

Bây giờ thì người ta có chức… “trợ lý giáo sư” còn lúc đó tôi chỉ biết hãnh diện vì là “trò cưng” của cô Thủy, giúp cô đỡ tốn sức phải nhắc lại và lại còn giúp các bạn dò lại sau khi viết! Ngày nay cách “nhắc lại” đó không còn áp dụng, học trò viết chậm thường chỉ có cách mượn vở của bạn để chép lại.

Tôi sang trường Trung học Ban Mê Thuột năm Đệ Ngũ. Có lẽ đây là quãng thời gian nhiều kỷ niệm nhất của thời học trò. BMT là một thị trấn nhỏ, chỉ đi chừng 10 phút là hết các con phố thị. Những phố chính nơi đây chỉ quanh quẩn vài con đường như Lý Thường Kiệt, Quang Trung, Nguyễn Thái Học, Tôn Thất Thuyết… với thêm những tên đường mang tên danh nhân người Thượng như Y Jút, Ama Trang Long…

 “Cầu 14”, một địa danh quen thuộc của BMT

Trung học BMT là một ngôi trường nhỏ với một dãy lớp học nên thầy trò luôn có cảm giác gần gũi như trong một gia đình. Riêng đối với tôi, ngày đầu vào lớp Đệ Ngũ cái cảm giác “gia đình” đó được thể hiện rất rõ nét vì được gặp lại thầy Đặng Kim Quy, trước đây là bạn học với ông anh tôi tại trường Phương Mai trên Đà Lạt. Trường Phương Mai là tiền thân của trường nữ Bùi Thị Xuân sau này nổi tiếng với các cô nữ sinh “má ngây ngây hồng” và chiếc áo len xanh lúc nào cũng khoác trên người.

Trên Đà Lạt thì gọi bằng “anh”, sang đến BMT lại là “thầy” nên tôi hay bị lẫn lộn trong lối xưng hô với thầy Quy. Thầy Quy có vóc dáng của một lực sĩ điền kinh, tôi đã từng ngưỡng mộ “anh” Quy với thân hình vạm vỡ mỗi lần anh đến nhà chơi với ông anh tôi khi còn ở Đà Lạt.

Sau này, cả hai ông anh đều vào Không quân. Anh Quy thì bay bổng trên trời với đôi cánh sắt còn ông anh tôi thì quanh quẩn dưới đất dõi theo qua màn hình radar! Tôi nghĩ, thầy Quy vẫn còn nhớ tới “thằng em” cũng là “thằng học trò” của thầy nên có lần thầy trò gặp nhau tại San Francisco, cả gia đình thầy đưa tôi đến một tiệm ăn ấm cúng trong bầu không khí gia đình.

Người thầy thứ hai là thầy Liễn, cũng là bạn học của ông anh tôi.  “Anh” Liễn ngày xưa trên Đà Lạt và “thầy” Liễn ở TH BMT có vóc người ngược lại với thầy Quy nhưng có tài “ăn nói” rất thuyết phục. Chả thế mà thầy Liễn còn được giao chức vụ Tổng giám thị của trường.

Ba người anh ngày nào nay chỉ còn hai. Ông anh tôi, Nguyễn Ngọc Nghiêm, đã vĩnh viễn ra đi tại Oklahoma ngày 16/10/1985. Ngày 7/2/2011 tôi nhận được email của thầy Liễn, bạn học của anh Nghiêm tại trường Phương Mai, Đà Lạt [1]. Nội dung như sau:

"Chính thân mến,

“Sáng nay anh đã đọc 2 lần DALAT SƯƠNG MÙ mà Chính đã gửi cho anh. Thật là trân qúy, những kỷ niệm tưởng như mới ngày hôm qua, để tưởng nhớ và thương tiếc NGHIÊM nơi ngàn trùng vĩnh biệt. Giờ phút này anh không thể nói gì với Chính cả, chỉ muốn dành thời gian nghĩ đến người bạn xấu số: NGUYỄN NGỌC NGHIÊM.

"Cám ơn em Chính nhé !

Thời đi học của tôi tại BMT khi đó trường có Hiệu trưởng là thầy Phạm văn Đồng. Không phải là “ông” Đồng, một chính khách và cũng là Thủ tướng của VNDCCH, thầy Hiệu trưởng Đồng của chúng tôi là một nhà giáo mẫu mực, từ tốn từ lời nói cho đến cách cư sử với đồng nghiệp và học sinh.

Tình cảm của chúng tôi dành cho thầy không những được duy trì trong suốt thời gian theo học mà còn lưu lại cho đến sau này khi chúng tôi trưởng thành, rời ngôi trường thời niên thiếu để tỏa đi khắp nơi trên thế giới. Thầy Đồng giờ tuổi tác đã già nhưng vẫn còn là một người thầy sống mãi trong kỷ niệm một thời đi học của tôi.

 Các cựu giáo sư & học sinh TH BMT hội ngộ tại tư gia thầy Phạm Văn Đồng 
nhân dịp đầu xuân tại Sài Gòn 

Nhiều thế hệ giáo sư đã đến rồi đi dưới mái trường TH BMT, thậm chí có nhiều người đã từng là học trò rồi sau đó trở thành thầy cô để dìu dắt các thế hệ đàn em dưới cùng một mái trường. Một số học sinh học lớp dưới chúng tôi cũng đã là thầy cô khiến mỗi dịp hội ngộ TH BMT có nhiều người thuộc lớp đàn anh lúng túng trong cách xưng hô.

Trường TH BMT cũng là nơi hội tụ nhà văn, nhà thơ đã từng dạy học tại đây và cũng đã từng nổi tiếng trên văn đàn miền Nam trước năm 1975. Tôi muốn nhắc đến thầy Nguyễn Duy Trại là nhà thơ Thái Anh Duy đã có thời làm chủ tịch Văn Bút Hải Ngoại tại Hoa Kỳ.

Thầy Nguyễn Kim Dũng, dạy hai môn Triết và Công dân Giáo dục, chính là nhà văn Thế Uyên, mẹ ông là em ruột nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, và bà cũng là chị nhà văn Thạch Lam. Nhà văn Thế Uyên là tác giả của một số các tác phẩm nổi tiếng xoay quanh người lính trong chiến tranh Việt Nam như “Mười ngày phép của một người lính”, “Tiền đồn”, “Đoạn đường chiến binh”... [2].   

Đối với phần đông học trò, môn Triết là một trong những môn “khó nhá” nhất vì những lý thuyết trừu tượng, mông lung nhưng không hiểu sao lũ học trò chúng tôi hầu như đều mong tới giờ Triết của giáo sư Dũng. Có lẽ vì trong giờ của thầy, ngoài những đề tài khô khan về triết học chúng tôi còn được nghe những chuyện vượt ra khỏi sách giáo khoa để được hiểu rõ hơn về triết các triết gia trong cuộc đời thực của họ.

Sau 1975, cũng như hàng trăm ngàn sĩ quan miền Nam, thầy Dũng đi học tập cải tạo trước khi đến định cư tại Mỹ. Thầy bị tê bại nửa người, phải ngồi trên xe lăn nhưng bằng một nghị lực phi thường, thầy Dũng đã tập viết bằng tay trái và trên các tạp chí văn học hải ngoại vẫn thấy xuất hiện các bài viết của nhà văn Thế Uyên.

Nhà văn Thế Uyên, Giáo sư Nguyễn Kim Dũng, đã ra đi về cõi vĩnh hằng ngày 11/6/2013, hưởng thọ 79 tuổi. Dưới đây là Phân Ưu của Hội Ái hữu Trung học Ban Mê Thuột:

“Hội Ái Hữu Trung Học Ban-Mê-Thuột vô cùng đau buồn báo tin trễ, cựu Giáo Sư, nhà văn, nhà báo THẾ UYÊN NGUYỄN KIM DŨNG đã từ trần ngày 11/6/2013, lúc 5 giờ 31 chiều, tại tư gia, Seattle, WA. Hưởng thọ 79 tuổi. Tang lễ và an táng đã cử hành ngày Chủ Nhật 16/6/2013.

Hội Ái Hữu cựu Giáo Sư, Học Sinh Trung Học Ban-Mê-Thuột, đồng thành kính chia buồn cùng cô Nguyễn Thuý Sơn và toàn thể tang quyến. Kính nguyện cầu hương linh Thầy THẾ UYÊN NGUYỄN KIM DŨNG sớm tiêu diêu Miền Lạc Cảnh”.

Các giáo sư trường TH BMT trong tấm hình lưu niện với thầy Hiệu trưởng Phạm Văn Đồng (người đứng khoanh tay ở giữa)

Trong tấm hình trên, người đứng hàng thứ hai từ phải sang là giáo sư Trần Văn Thịnh, dậy môn Sử. Sở dĩ tôi nhắc đến thầy Thịnh vì có nhiều kỷ niệm với thầy và gia đình thầy năm 2007 và 2013 tại Úc Châu [3].

Trong cả hai lần đến Melbourne thăm gia đình con gái, tôi đều gặp thầy và người bạn đời của thầy là Thanh Xuân, cũng là học sinh BMT học dưới tôi vài lớp. Được hội ngộ với thầy Thịnh là cả một duyên may qua con gái Bích Hà. Ở Melbourne Hà có quen với em của Thanh Xuân và lần tìm ra manh mối thầy Thịnh.

Điều trớ trêu là Hà gọi thầy Thịnh-Thanh Xuân bằng anh chị còn tôi lúc gặp lại vẫn không thể nào quên được chữ “Thầy”. Lần gặp đầu tiên năm 2007 chúng tôi lên Bright thăm thầy, Bright cách Melbourne khoảng 300 cây số.

Giây phút đầu tiên gặp thầy Thịnh sau mấy chục năm xa cách thật khó quên: vừa bước vào cửa đã nghe bản quốc ca của VNCH qua băng cassette. Tôi lặng người không nói nên lời vì cách thầy chào đón người học trò cũ bằng một lễ nghi đúng điệu… quân cách. Giây phút đó tôi ôm thầy, nghẹn ngào, nước mắt rưng rưng…       

Những nụ cười rạng rỡ trong buổi hội ngộ tại nhà thầy Thịnh, Melbourne, 2013

Có những giáo sư đáng kính như thầy Thịnh là một duyên may trong thời học trò. Nhưng cũng có những giáo sư “đáng sợ” như thầy Đĩnh dậy Pháp văn, phải nói là thầy Đĩnh “hét ra lửa” với những học trò dốt tiếng Pháp. Ông đã từng bắt hai học sinh quỳ hai bên bảng đen, quay mặt xuống nhìn cả lớp có đủ cả nam lẫn nữ sinh. Thầy còn chế diễu: “Hai ‘ông’ này là Chánh tế và Phó tế”!

Thật tình tôi không “ngán” thầy Đĩnh bằng thầy Viên dạy Toán vì môn Toán đối với tôi rất… “khó nhá”. Thầy Viên, theo mô tả của nhiều học sinh, lúc nào cũng “lầm lầm lì lì”, không bao giờ cười và có thói quen khi cả lớp đang làm bài thì thầy đi từ đầu lớp xuống cuối lớp, đầu thầy gật gù và miệng thì lẩm bẩm câu gì đó. Thầy rất nghiêm nhưng tôi chưa thấy thầy phạt một ai và trong giờ của thầy, cả lớp im phăng phắc.

Có người đưa ra nhận xét: cái tên đôi lúc cũng ảnh hưởng đến con người. Nhận xét này rất đúng với trường hợp một cô giáo mà tôi có ấn tượng mạnh nhất trong những năm học trên BMT. Đó là cô Tiên, dạy Việt văn.

Thật đúng với cái tên của một “cô tiên” có sức cuốn hút mỗi khi cô bước vào lớp. Học trò đang tuổi mới lớn nên nhiều mơ mộng vẩn vơ và thường lấy hình ảnh của cô làm mẫu mực… Cô Tiên rất thoải mái trong việc giảng dậy học trò nên trong lớp nhiều khi có những cuộc tranh luận rất gay cấn.

Tôi nhớ mãi một hôm trong giờ Kim văn có từ ngữ “khoái lạc” từ một bài văn bị lạc vào tầm ngắm của học trò. Thế là cả lớp, toàn những “mái đầu xanh vô tội”, say sưa tranh luận về “khoái lạc” mà kỳ thật có lẽ chẳng ai hiểu cho rõ ngọn ngành của… khoái lạc. Có lẽ trừ một vài anh theo phong tục xưa, gia đình cho lấy vợ sớm, nhưng vẫn còn đi học!             

Thời tôi học trên BMT có nhiều giáo sư tốt nghiệp từ Đại học Sư phạm Huế như các thầy Lô, thầy Uyên, thầy Di, thầy Trúc… Giọng Huế của thầy Trúc trong giờ Anh văn thật đặc biệt. Tôi nhớ thầy qua câu “Question… zero, ngồi xuống!”.

Số là một hôm thầy Trúc kiểm tra phần phát âm, mỗi học sinh được gọi tên sẽ đứng lên chỉ để đọc mỗi một chữ “question”, anh nào phát âm là “quét chân” được 10 điển còn anh nào “quét sân” lập tức bị zero, thầy còn nói thêm: “Ra ngoài sân mà quét!”.

Thầy (ngồi) và trò (đứng) trong một lần hội ngộ tại Sài Gòn năm 1997

Phần cuối của bài viết này xin dành cho một người thầy mà những kỷ niệm đã gắn bó với tôi, không những chỉ trong những năm cuối Trung học mà còn kéo dài cho đến ngày nay, khi thầy thì đã gần 80 còn trò thì bước vào tuổi 70.

Tôi muốn nói đến thầy Bùi Dương Chi, dậy Anh văn tại trường TH BMT từ năm 1963 đến 1974. Tôi chỉ học thầy đến năm 1967, lại chọn Anh văn làm sinh ngữ phụ, nhưng đó không phải là lý do khiến tầm ảnh hưởng của thầy phai nhạt đối với tôi, không những vào tuổi học trò mà còn kéo dài đến tận ngày nay.

Thầy Chi xuất thân từ một gia đình khá nổi tiếng. Thân phụ của thầy là ông Bùi Nhung, nhà báo và cũng là công chức dưới thời VNCH. Thầy còn có bà mẹ là nhà văn Thụy An, người đã ở lại Hà Nội sau Hiệp định Geneva năm 1954 để rồi đến năm 1958 bị chính quyền VNDCCH kết án 15 năm cải tạo trong vụ án “Nhân văn – Giai phẩm” [4]. Bà cũng là nhân vật nữ duy nhất và nhận mức án cao nhất bên cạnh những nhà văn như Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt, Phan Khôi…

Dòng họ Bùi còn có người đã gắn bó lâu đời với hoạt động văn hóa Việt Nam thời cận đại như ông Bùi Kỷ [5], anh ruột của ông Bùi Nhung, thân phụ giáo sư Chi. Ông Bùi Kỷ là nhà giáo, nhà Nho và nhà nghiên cứu văn hóa có ảnh hưởng trong những năm đầy biến động của lịch sử Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ 20. Một người em gái của ông sau này lấy chồng là ông Trần Trọng Kim, nhà chính trị, nhà văn hóa và nhà sử học.

 Hai thầy trò tại Sài Gòn sau năm 1975

Các bạn trẻ ngày nay thường chọn những ngôi sao ca nhạc, điện ảnh làm “thần tượng”. Đối với thế hệ của chúng tôi, “thần tượng” không phải tìm đâu xa mà chính là những người sống ngay bên cạnh mình. Thầy Chi là một ví dụ điển hình.  

Thầy Chi đỗ Tú tài toàn phần năm 1958 nhưng lại không tiếp tục học mà tham gia Cơ quan Tình nguyện Quốc tế (International Voluntary Services – IVS), một tổ chức bất vụ lợi của Mỹ được thành lập từ năm 1953 nhằm thực hiện các chương trình phát triển tại các nước thuộc “thế giới thứ ba” như Việt Nam, Lào, Ai Cập, Iraq, Nepal, Ecuador, Bolivia, Algeria… IVS chấm dứt hoạt động năm 2002 chỉ còn “Peace Corps” (Đoàn Hòa Bình), một tổ chức của chính phủ Mỹ do Tổng thống Kennedy thành lập từ năm 1961. 

Trong suốt thời gian làm thanh niên tình nguyện, IVS đã tạo cơ hội cho thầy Chi đến các vùng xa xôi như Thừa Thiên, Quảng Ngãi, Tuyên Đức, Ninh Thuận và Ban Mê Thuột. Hai năm sau thầy Chi mới trở về ghi danh tại Đại học Sư phạm Sài Gòn, dĩ nhiên là ban Anh văn. Khi tốt nghiệp, trường TH BMT là địa chỉ duy nhất thầy chọn làm nhiệm sở. Thầy tâm sự trong một email:

“Tôi thích BMT/Daklak vì tôi đã có việc làm đầu đời ở đó từ 20/04/1958 với nhiều kỷ niệm thân tình và nhiều cơ hội học cách xử dụng các loại nông cơ do một số thanh niên nông thôn Mỹ thuộc tổ chức IVS tình nguyện sang VN chỉ dẫn… Do đó, khi điền đơn chọn nhiệm sở kể từ  NK 1963-1964, tôi chỉ ghi BMT/Daklak.  Ngày trình diện, tôi rất mừng khi thấy hs gồm có nam và nữ, Kinh và Thượng. Suốt 11 niên khóa, nhiều hs học tôi và không học tôi, ngoài việc học chữ, còn hăng hái tham gia các hoạt động hiệu đoàn và cộng đồng do mấy thầy, cô và tôi chủ xướng”.    

Hoạt động hiệu đoàn mà thầy Chi nói đến trong email là chương trình xây thư viện cho trường. Ngày đó, các lớp lớn, từ Đệ Tam đến Đệ Nhị, thường có những hoạt động “ngoại khóa”, trước tiên là làm gạch, sau đó trường dành một miếng đất nhỏ cho học sinh tự tay xây một thư viện vuông vức, mỗi chiều khoảng 4 mét.

Thế là ngoài những giờ học trong lớp, trường bỗng trở nên sống động với các học trò khoác áo công nhân dưới quyền điều động của thầy Chi, giáo sư Anh văn kiêm… kiến trúc sư xây dựng. Cũng như các thành viên IVS, chúng tôi tự nguyện tham gia việc xây thư viện vì đó là việc làm thiết thực cho mình và cho cả những thế hệ đàn em sau này.   

Học trò sau một buổi làm công nhân xây thư viện

Đối với tôi, thầy Chi còn để lại những dấu ấn riêng tư về nhiều khía cạnh. Thầy đã tạo cơ hội để tôi tiếp cận với văn chương thế giới qua tiếng Anh. Truyện ngắn nổi tiếng “The Gift of the Magi” của nhà văn O. Henry đã được thầy đưa vào lớp năm tôi học Đệ Tam.

Sau này, truyện đã được dịch sang tiếng Việt với nhiều tựa đề như "Món quà Giáng Sinh", "Món quà của nhà thông thái" hay "Món quà của các đạo sĩ"… kể về một cặp vợ chồng trẻ và cách họ đương đầu với những thách thức của việc mua quà tặng Giáng sinh cho nhau với số tiền ít ỏi mà họ có.

Với số tiền 1 đô la 87 xu, Della quyết định mua một sợi dây cho chiếc đồng hồ bỏ túi quý giá của James vì anh chưa bao giờ có đủ tiền mua sợi dây đeo. Để có tiền, Della quyết định cắt mái tóc dài của mình, thứ quý giá nhất mà nàng có, bán cho tiệm làm tóc giả. Trong khi đó, Jim quyết định bán đồng hồ quý giá của mình để mua một bộ kẹp tóc có đính đá quý cho Della.

Cả hai đều hí hởn vì nghĩ rằng mình có thể làm cho người kia bất ngờ và ngạc nhiên về món quà độc đáo của mình. Tuy thất vọng ở đoạn kết, cả hai có thể cảm nhận được tình yêu của nhau qua việc đã hy sinh vật quý nhất của mình để mua cho nhau món quà mà người kia thích.

Thầy Chi cũng là người dẫn tôi vào thế giới của âm nhạc. Trong những lần đến nhà thầy, tôi vừa được học thêm tiếng Anh với các bạn IVS của thầy lại còn học được những bản nhạc “đồng quê” của Mỹ. Sau này, khi đi du học Hoa Kỳ, tôi vẫn thường làm người Mỹ ngạc nhiên vì có thể hát các bài như “Tom Dooley” [6], "Swing Low, Sweet Chariot" [7], “Five Hundred Miles” [8]

Cho đến bây giờ, thỉnh thoảng tôi vẫn nghêu ngao những bài hát này để nhớ về một người thầy của thời niên thiếu:

“If you miss the train I'm on
You will know that I am gone
You can hear the whistle blow
A hundred miles…”

“Swing low, sweet chariot
Coming for to carry me home,
Swing low, sweet chariot,
Coming for to carry me home…”

“Hang down your head, Tom Dooley
Hang down your head and cry;
Hang down your head, Tom Dooley,
Poor boy you're bound to die…”

Ảnh mới nhất của thầy Chi bên cây đàn tại nhà Vĩnh Anh, học trò cũ
(Cali, 2014)

Tôi rời TH BMT vào cuối năm Đệ nhị để về lại Đà Lạt học tiếp tại trường Trần Hưng Đạo vì BMT khi đó chưa có lớp Đệ nhất. Đó cũng là những năm tình hình chính trị tại miền Nam rối ren vì các cuộc biểu tình, kéo theo một số học sinh cũng bỏ học để “xuống đường” tại nhiều nơi, kể cả BMT.

Trong cương vị một nhà giáo, thầy Chi không chấp nhận việc “xuống đường”. Theo lời kể lại của một số học sinh, “thầy Chi quá khắt khe” khác hẳn với phong cách thân tình, hiền hòa của những năm đầu mới lên dậy trên BMT.

Bây giờ ngồi nghĩ lại, tôi rất “thông cảm” với thái độ dứt khoát của thầy vào thời điểm đó. Chuyện biểu tình là của những người đã trưởng thành và có chính kiến rõ rệt còn chuyện học sinh “xuống đường”, xét cho cùng, cũng chỉ là sự lợi dụng của “người lớn”, họ đẩy học sinh ra đường chỉ nhằm mục đích tạo hậu thuẫn cho các thế lực chính trị.

Bẵng đi một thời gian nhập ngũ và về dậy tại trường Sinh ngữ Quân đội, tôi mất liên lạc với thầy Chi và chỉ gặp lại thầy vào năm 1974 tại Sài Gòn. Thầy về đây để chuẩn bị hồ sơ đi du học. Cũng thật may mắn khi tôi có cơ hội cùng với một người bạn, Đoàn Đình Nga, cũng là cựu học sinh BMT, “bảo lãnh” cho thầy đi vì thủ tục thời đó đòi hỏi phải có 2 sĩ quan đứng ra ký tên bảo lãnh cho người xin đi du học.

Tôi và người bạn “hoan hỉ” làm công việc “bảo lãnh” cho thầy và không thể nào ngờ một năm sau đó Sài Gòn sụp đổ khiến thầy Chi trở thành một trong số những người “di tản” khỏi Việt Nam… sớm nhất. Tại Hoa Kỳ, thầy Chi có dịp đoàn tụ cùng bà xã là cô Diana, một thành viên IVS trước đây, và thầy lấy bằng Cao học Giáo dục tại trường Đại học Boston, Massachusetts.      

Thầy Chi và con trai trên “Cầu 14” trong một lần về thăm lại BMT

Những tưởng chuyện thầy Chi đến đây có thể tạm dừng nhưng đó lại chưa phải là đoạn kết. Từ năm 1992 thầy Chi đã nhiều lần trở về Việt Nam với nhiệm vụ là Giáo sư Hướng dẫn của Chương trình Học kỳ Hải ngoại (College Semester Abroad) thuộc School for International Training (SIT), tiểu bang Vermont. SIT tạo điều kiện cho sinh viên Mỹ theo một học kỳ mùa hè khắp thế giới, trong đó có Việt Nam.

Mỗi học kỳ, sinh viên học 12  tuần tại Trung Tâm Nghiên Cứu Việt Nam và Đông Nam Á tại Sài Gòn và sau đó có 4 tuần lễ đi du khảo các địa danh nổi tiếng từ Nam ra Bắc. Tôi đã từng tham gia 2 chuyến du khảo “cross-country” cùng thầy trong số 9 lần thầy dẫn sinh viên về Việt Nam.

Tôi thầm nghĩ, thầy Chi đã chọn đúng một công việc thích hợp với khả năng chuyên môn đồng thời công việc này lại khiến thầy theo dõi tình hình thực tế của đất nước. Trong một email thầy phân tích:

“Điều khác biệt lớn nhất trong ngành giáo dục sau 1975 là nhà nước đã can dự rất quy mô vào sinh hoạt học đường qua ban giám hiệu, giáo chức và các đoàn thể sinh viên, học sinh. Trước 1975, ở các trường tiểu, trung và đại học tôi đã theo học và ở trường TH BMT là nơi tôi đã dậy 11 niên khoá thì không có sinh hoạt chi bộ đảng đoàn nào cả.

Một điều khác biệt nữa là trước 1975, nhân viên nhà trường và giáo chức bị kỷ luật thì có thể bị kết tội là “vi phạm đạo đức nghề nghiệp” chứ không có các tội “phản động”, làm “mất đoàn kết nội bộ”, lợi dụng “tự do, dân chủ” để chống đối chính quyền hay lật đổ chế độ, v..v.. như ngày nay”. 

Thầy Chi (mũ đen) và đoàn sinh viên Mỹ trên đỉnh đèo Hải Vân

Đó là một nhận xét rất khách quan của một người thầy suốt đời sống vì sự nghiệp giáo dục. Đó cũng là điều chúng ta cần suy gẫm để ngành giáo dục của Việt Nam ngày càng hoàn thiện hơn.  

***

Chú thích:

[1] Về anh Nguyễn Ngọc Nghiêm, đọc “Hồi ức về một người thân” tại:

[2] Về nhà văn Thế Uyên, đọc “Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Lính tráng (2)” tại:

[3] Về thầy Trần Văn Thịnh, đọc “Du ký xứ… Miệt Dưới (3): Tiệc hội ngộ” tại:

[4] Về nhà văn Thụy An, đọc “Nhân văn - Giai phẩm: Nhà văn Thụy An” tại:

[5] Về ông Bùi Kỷ, xem Wikipedia tại: http://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B9i_K%E1%BB%B7

[6] Xem video clip “Hang Down Your Head Tom Dooley” do ban The Kingston Trio hát tại:

[7] Xem video clip "Swing Low, Sweet Chariot" do Johnny Cash trình bày tại:

[8] Xem video clip “Five Hundred Miles” do ban The Brothers Four trình bày tại:
https://www.youtube.com/watch?v=VLeyCX3Em-c

***

Bình luận trên Facebook:




***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 2: Thời niên thiếu)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

1.            Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2.            Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3.            Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4.            Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
5.            Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6.            Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7.            Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8.            Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9.            Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ) 

Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!

2 nhận xét:

  1. Nhân đây xin hỏi anh Chính còn nhớ Sơn Beattle ở Trần Hưng Đạo Dalat ? Nghe nói giờ là nhà báo Hà văn Sơn ( Biệt Kích Hà Văn Sơn ) ở Mỹ có đúng không ?

    Trả lờiXóa

Popular posts