Chú thích của NNC:
“Tỉnh NinhThuận (thủ
phủ: Phan Rang – Tháp Chàm, PR-TC) nằm bên bờ biển Đông, Bắc giáp tỉnh Khánh
Hòa (tp. Nha Trang), Nam giáp tỉnh Bình Thuận (tp. Phan Thiết), Tây giáp tỉnh
Lâm Đồng (tp. Đà Lạt). Dân số khoảng 569.000. Có 3 sắc tộc chánh là Kinh, Chăm
và Raglai. (htpp://vi.wikipedia.org 2011)”
“Dưới đây là bài du
ký của Giáo sư Bủi Dương Chi, thầy đả từng dậy tôi từ năm Đệ Tam đến Đệ Nhị tại
trường Trung học Ban Mê Thuột. Hình kèm và chú thích đều do Thầy Chi chụp và
ghi từ năm 1960 đến 2015. Đó là những tư liệu quý giá trong suốt cuộc đời của
Thầy, từ một thanh niên tình nguyện (International Volunteer Service) năm 1960 cho đến những lần trở về Việt Nam làm Giáo sư Hướng dẫn sinh viên Hoa Kỳ”
***
Năm
lớp nhất tiểu học, tuy muốn biết ý nghĩa của mấy địa danh như Phan Thiết, Phan
Rang, Phan Rí,… nhưng tôi không dám hỏi thầy giáo tại sao vua chúa lại đặt mấy
tên nghe lạ tai thế. Vô Nam, lên Trung Học Đệ Nhị Cấp, bớt nhút nhát, tôi hỏi
thì GS Sử Địa giải thích đại khái đó là tiếng địa phương, đồng thời nửa răn nửa
đe “Lo mà học. Trò thắc mắc làm chi cho mất
thời giờ của cả lớp”.
Tháng
5/2012 , nhân dịp đến thăm thầy Tỷ, tôi hỏi:
-
“Phan Rang” có gốc từ “Pandarang” là
vùng đất trọng yếu của Champa phải không?
Ổng
vừa cười vừa khôi hài:
-
Mấy vua Đại Việt cướp đất và tàn sát dân Champa nên “Phang” rồi “Rang” cho tụi
nó tiêu luôn.
Tôi
hỏi:
-
Còn “Ninh Thuận”?
Ổng
đáp:
-
“Ninh” cho nhừ thì tụi nó phải “Thuận” chớ sao.
Tôi
bèn tiếp lời:
-
Vậy “Phan Thiết” là “Phang” rồi đóng “hàm thiếc” cho tụi nó im mồm. “Phan
Rí” là “Phang” rồi “Dzí gươm” vào cổ cho tụi nó câm họng.
Ổng khen tôi gìa mà vẫn còn sáng trí.
Ổng khen tôi gìa mà vẫn còn sáng trí.
Thầy Nguyễn Văn Tỷ
(bên trái) dậy Pháp Văn, THBMT 1963 - 65, tên tiếng Chăm là Tra Jya Yut Cham, bút hiệu
Chế Vỹ Tân, Tác giả cuốn “Giáo Dục So Sánh” và một số bài viết về sắc tộc
Champa. Thầy ngồi ở sân nhà trong làng gần Tp. Phan Rang-Tháp Chàm
(PR-TC) với học trò cũ nay là Thầy Giảng đạo Hồi Chăm Bà Ni (2012).
***
NHA HỐ (Hè 1960)
Giữa
năm 1960, Cơ Quan Thiện Chí Quốc Tế thuyên chuyển tôi từ Trung Tâm Nông Lâm Súc
Ea-Kmat (Darlak) xuống Nha Hố để thông dịch và dậy vài câu chào hỏi cho 3 đoàn
viên sẽ phụ trách trồng thử nghiệm mấy loại cây thực phẩm. Cơ Quan yêu cầu
chúng tôi ở ngay trung tâm với các cán sự và lao công địa phương.
Tháp nước (1995).
20 năm sau 30/4/75, tôi ghé thăm Nha Hố. Nhìn nền sơn vàng và 3 từ
"Trại Nha Hố" sơn đỏ, tôi tự hỏi các cán sự và lao công đã
làm việc với chúng tôi, dưới Chế Độ Việt Nam Cộng Hòa, phải chăng
sơn như vậy để ghi nhớ những ngày tháng hợp tác đóng góp công sức
vào chương trình cải thiện mức sống của nông dân địa phương?
Nhà và văn phòng
(1960). Xe Jeep của chúng tôi. Đằng sau là Land Rover của nhóm Thiện
Chí Quốc Tế ở số 3 Nguyễn Thượng Hiền, Đà Lạt.
Vùng Nha Hố rất khô, quanh năm trời nóng và gió, cây cỏ thưa thớt trừ
xương rồng và các bụi rậm đầy lá sắc cạnh. Vậy mà thỉnh thoảng tôi vẫn thấy
công và gà rừng. Một lần tôi còn “chạm trán” với một trự heo độc - rất dữ, chỉ
còn một nanh cỡ ngón chỏ cong ngược lên sống mũi - đen trũi, ức nở, bụng thon, bự
con như chó bẹc-giê Đức, đang xục xạo đào bới mấy luống khoai lang, giống Đài
Loan. Hắn hục hục nghênh tôi rồi bỏ đi.
Tôi, tay cuốc tay thuổng, cũng bỏ đi
nhưng chạy thiếu điều hụt hơi. Giật gân hơn nữa là mấy lần lao công chỉ cho tôi
xem dấu chân cọp về bắt bò và dê là hai loại gia súc được dân làng nuôi nhiều
vì dê lá cây gì chúng cũng ăn, trừ xương rồng, còn bò khi thiếu cỏ đã có lá
xương rồng đốt hết gai bù vào.
Máy cầy tay (sới
đất) Kubota của Nhât.
Tôi dọn cỏ.
Hai cán sự canh
nông và Paul thu hoạch Shorgum (Kê? Bobo?)
để thẩm định mức dinh dưỡng
và năng xuất.
Cao-Bồi Chi, không
biết cưỡi ngựa, dẫn bò về chuồng.
Biểu diễn
"plông-gziông" ở hồ của đập Nha Trinh (1960).
Theo
các chuyên gia địa chất học, hồi tiền sử vùng này là biển. Sau này nước rút, đất
nhiều nơi còn mặn nên nhiều loại muông thú không bỏ đi. Một đoàn viên tình nguyện
Mỹ bảo tôi nhà nông ở bển đôi khi để muối tảng ngoài đồng cho bò liếm.
Năm
1987, khi tôi đi thăm vợ chồng người bạn ở vùng đồng quê tiểu bang New Jersey,
tôi mới không ngạc nhiên khi đọc bảng thông cáo các sinh hoạt văn hoá có mục mời
cư dân đến xem những “tác phẩm điêu khắc trên muối” của các chị bò sữa!
Con trai chụp hình anh rể, chị và bố (hình cô Diana chụp năm1995).
Dê, các bụi cây lá
sắc cạnh và xương rồng.
Ở
Nha Hố, ngay trong tuần lễ đầu, vì cần
nước tưới cây trồng thử nghiệm đều đặn, 3 đoàn viên Mỹ đã chỉ dẫn cho lao công
lắp đặt một bộ cánh quạt gió với láp thẳng đứng bắt vào trục máy bơm tay đưa nước
lên bể chứa. Từ đó, trung tâm có “hệ thống dẫn thủy” liên tục và chúng tôi luôn
luôn có sẵn nước sạch để nấu ăn.
Tắm rửa chúng tôi ra hồ của đập Nha Trinh. Đêm
nào nóng quá ngủ không được, chúng tôi mở vòi nước tưới cây tắm mát rồi vô nhà
ngủ tiếp. Đọc sách viết thư lúc trời tối, chúng tôi dùng bóng 12 volts gắn vào
bình điện thay cho đẻn “măng xông” tuy sáng chưng nhưng rất nóng, chưa kể chốc
chốc phải bơm tay tăng áp xuất đẩy “khí đá” trong bầu lên tới “bóng” đèn.
Hồ của đập Nha
Trinh (2015).
Đập tràn (spillway)
là một phần của đập chánh để nước thoát bớt khi hồ đầy quá mức.
Ngoài đập Nha Trinh
xây từ thời Pháp Thuộc, đập sông Đa-Nhim do Nhật tài trợ, bồi thường Chiến
Tranh Thế Giới II, đưa vào xử dụng từ năm 1964. Đi qua đèo Ngoạn Mục
trên đường Phan Rang - Đà Lạt sẽ thấy 2 ống kim loại khổng lồ dẫn
nước xuống nhà máy thủy điện. Nhờ vậy, Nha Hố trở nên xanh ngát.
Ngoài lúa, bắp,
khoai, đậu, mía, dân còn trồng nho. Cách đây cả trăm năm người Pháp đã
trồng nhưng không nhiều như hiện nay.
Dù
sinh hoạt hàng ngày thiếu nhiều tiện nghi nhưng tôi rất khoái chí được làm việc
ở Nha Hố vì từ tuổi tiểu học ở Hà Nội tới cấp trung học ở Saigon, tôi rất mê
phim Cao Bồi. Nha Hố với những ngọn đồi trơ trụi, với những núi đá tảng, với nắng
hè cháy da, gió cát rát mặt, với những hồi còi xe lửa văng vẳng lúc lớn lúc nhỏ
khi tầu đến và rời ga Tháp Chàm làm tôi mường tượng như đang sống giữa các sa mạc
ở miền Viễn Tây Hoa Kỳ.
Dàn nho.
Lao động thời vụ.
Rất tiếc nho không
ngon ngọt. Nhiều khi bán rẻ cũng ít ai mua. Đưa lên Đà Lạt làm rượu
chát/vang nhưng phẩm chất còn thấp.
***
BẮN CỌP VỒ BÒ Ở NHA HỐ
Khoảng
giữa tháng 7, một nông dân đến nhờ các ông Mỹ có súng đi bắn cọp giùm vì nó mới
vồ bò của ổng. Paul và tôi đồng ý giúp. Chạy xe Jeep băng đồng tới nơi, chúng
tôi cột xích kéo xác bò đến gần một gò đất. Nông dân cho biết, theo kinh ngiệm,
trời chạng vạng tối cọp sẽ đến ăn. Họ giúp chặt cành cây gài và cột quanh xe trừ
phía trước để bảo vệ và ngụy trang trong khi chúng tôi tháo mui xe, ngả kiếng
chắn gió, chuẩn bị súng đạn, đèn pin săn đêm, đồ ăn khô và nước uống.
Xế
chiều Paul lái xe lên gò, đặt súng trên ca-bô (nắp che dàn máy). Trong lúc chờ
cọp, Paul đọc Thánh Kinh, tôi tụng… Tam Quốc Chí. Chẳng rõ lâu mau, bỗng dưng
chim chóc, côn trùng im bặt. Ngoảnh sang trái, tôi thấy Paul, hai tay nâng
Thánh Kinh, ngồi như phỗng đá. Rồi qua các kẽ hở giữa cành lá, tôi thấy Cọp đi
vòng sau xe sang bên tôi. Sợ quá, tôi muốn bảo Paul “đề” (khởi động) máy bỏ chạy,
nhưng cứng họng, nói không ra tiếng. Đánh hơi một hồi, Cọp bỏ đi.
Paul
xuýt xoa nói nó đứng sát xịt, hết dám cục cựa. Hoàn hồn, tôi bảo Paul đến lượt
tôi giữ súng. Trời tối dần. Tôi đeo đèn săn lên trán rồi bắt giây đèn vào hộp
pin móc ở đai lưng. Xong việc, vừa ngửng lên, tôi đã thấy Cọp đứng cạnh xác bò.
Đợi Cọp cúí xuống ăn, tôi nhắm vào mạng sườn sát vai, may ra trúng tim hay phổi,
rồi nổ súng. Cọp gầm và nhẩy cẫng lên cao đến hơn đầu người rồi rớt xuống xác
bò. Tôi lên đạn, bắn phát nữa, trúng bụng. Cọp oằn mình vùng giậy rồi khập khiễng
bỏ chạy.
Paul
“đề” máy, mở đèn, đuổi theo. Được một quãng, từ sau một lùm cây, Cọp chồm ra.
Paul thắng xe, bật đèn pha. Cọp bị choá mắt, đứng im. Paul hét “Hang on = bám
chặt vào thành xe” để anh tông nó. Tôi la “No” vì sợ rách bộ da. Đứng lên ghế,
tôi nhắm giữa hai con mắt xanh lè, bóp cò. Cọp khuỵu cái rụp. Hăng máu, tôi lên
đạn, gỡ mấy cành cây, xuống xe, chọc chọc nòng súng vào hông Cọp. Cọp không cục
cựa.
Mừng
quá, tôi cầm súng chạy quanh và hò reo như khi nhẩy màn “Lửa Rừng Đêm” của Hướng
Đạo. Xa xa, lao công và mấy người làng cầm đuốc đang theo nhau chạy tới. Paul
nói cho anh bộ da mang về Mỹ làm kỷ niệm. Tôi gật đầu. Mấy người chuyên lột da
bò, da dê bảo phải lột ngay đem về Chợ Lớn thuộc sớm mới đẹp và bền. Đổi lại
tôi phải cho họ hết xương, thịt và nội tạng.
Tôi
bằng lòng với điều kiện phải chia phần cho chủ bò và trả tôi cái sọ. Họ đồng ý
chia phần nhưng than nấu cao hổ cốt mà không có cái đầu thì cao yếu xì. Tôi
không chịu. Kỳ kèo không được, họ nhận lời và bảo tôi lột da xong họ sẽ luộc
cái đầu rồi đem ra đồng để trên ổ kiến lửa. Qua đêm là sạch boong. Mấy ngày sau
ở Saigon về, không thấy sọ cọp, tôi hỏi. Họ đáp sáng hôm sau ra ổ kiến, không
thấy sọ đâu. Chắc cáo hay mèo rừng tha đi mất tiêu!
Nhóm chuyên lột da
bò nói Cọp này chỉ dzớt cái một là bò gẫy cổ. Người chịu sao
thấu. May từ đời ông, đời cha đến nay, vùng Nha Hố chưa ai bị cọp vồ.
Vậy đó mà thấy dấu chân "ông" là mất ăn mất ngủ, nhất là
nhà có con nhỏ (1960).
Phát đạn thứ ba,
hóa kiếp cho Cọp.
***
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét