“Ngán cho cái mũi vô duyên,
Câu thơ thi xã, con thuyền Nghệ An”
(Cao Bá Quát)
Cao Bá Quát đã so sánh thơ thi xã với mùi của con thuyền buôn mắm xứ Nghệ… theo ý ông, “thơ không thể ngửi được!”… Đó có lẽ là lối phê bình thơ có một không hai trên thi đàn nước ta từ xưa đến nay.
Ngày nay, chúng ta thường coi thơ là một hình thức nghệ thuật tinh vi trong việc sử dụng ngôn ngữ với sự chọn lọc và sắp xếp từ ngữ để tạo nên hình ảnh mang tính gợi cảm đồi với người đọc hoặc người nghe.
Trong các thể loại thơ ở Việt Nam, ta có thể kể đến lục bát, song thất lục bát, các thể loại thơ Đường luật như thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn bát cú rồi đến các loại thơ mới và thơ tự do.
Ngoại trừ thơ tự do, một hình thức hầu như không có một cấu trúc rõ rệt, các loại thơ khác hầu như đều có niêm luật nhất định. Chặt chẽ nhất có thể là các loại thơ Đường, trong đó cấu trúc về nội dung, luật về số chữ trong câu, số câu trong bài, về cách gieo vần quyết định thể loại của bài thơ.
Sự khắt khe trong cấu trúc làm cho thơ Đường trở nên gần như một hình loại văn học chỉ dành riêng cho các tầng lớp trung lưu trở lên. Chính vì sự khắt khe này, thơ Đường hiện nay dần dần bị phai nhạt và hầu như không còn ai để ý đến nữa.
***
Tôi cũng có một thời gian lạc vào đất của Nàng Thơ bằng cách “ti toe” viết ra một số bài thơ tuỳ theo cảm hứng và thấy rằng để làm “thi sĩ” khó hơn “văn sĩ” rất nhiều! Với văn chương, chỉ viết trong lúc ý tưởng tuôn trào nhưng với thơ phú không thể như vậy, làm thơ là một quá trình nhiêu khê vì phải sàng lọc câu chữ để diễn tả nỗi lòng.
Bước đầu tiên tôi có cả một thời gian dài chỉ dành để chép thơ của các thi sĩ nổi tiếng mà mình yêu thích khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Những bài thơ của các “bậc thầy” như Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính… cho đến Nguyên Sa, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Tất Nhiên… đã chiếm một chỗ ngồi trong quyển sách “thư chép tay”.
Phải đợi đến những năm cuối trung học trên Đà Lạt tôi mới lần đầu tiên làm 4 câu thơ lục bát do hoàn cảnh hữu tình xuất phát từ sở Xứ sở Sương mù. Cậu học sinh cảm thấy cô đơn giữa những con phố đông người đã phải thốt lên:
“Tôi đi giữa phố đông người
Bước chân thu nhỏ cho chiều dừng đây
Khẳng khi đôi ống chân gầy
Kéo lê hè phố gót giầy thời gian!”
Bài thơ “Xưa & Nay” viết năm 2023 lập lại ý của những câu thơ đầu tiên nhưng đã có phần mô tả những diễn biến của cuộc đời sau khi đã từng bị đời hành “lên bờ, xuống ruộng”:
“Xưa đi giữa chốn đông người
Kéo lê hè phố gót giầy thời gian
Nay ngồi một chỗ thở than
Muốn đi chẳng đặng… vẫn ham với đời!
“Xưa còn hăm hở làm người
Bon chen, kèn cựa… nửa cười, nửa than
Ngày nay quanh quẩn một mình
Biết không tìm được ai người tri âm!
"Một mình lặng lẽ âm thầm
Cuối đời tiếc nuối… chỉ ngần ấy thôi
Đi ra rồi lại đi vào
Cũng may còn sức… đi vào, đi ra!
“Bao giờ thoát kiếp ta bà
Để ta rảnh nợ… đường xa khởi hành
Giã từ mọi thứ đành hanh
Bước lên một chuyến tàu nhanh tốc hành?
Cho
đến khi tôi gặp được người trong mộng, nàng chỉ nói một câu “Chán em đi!” thế là bao ý tưởng tuôn
trào:
“Mới hôm qua, gần nhau, em thủ thỉ
“Anh yêu nhiều, yêu quá… chán em đi!”
Chán em ư? Chuyện chẳng có bao giờ
Khi tình vẫn một lòng yêu, em nhỉ?
“Anh lại nghĩ, đến một ngày nào đó,
Em quay lưng, phủi tay… em giũ bỏ…
Chán cuộc đời và chán cả tình anh
Biết sao được… khi bất ngờ còn… bỏ ngỏ?
Nguồn
thơ lai láng, tôi lại làm tiếp một bài “Bao
giờ anh mới chán?”:
“Em hỏi anh, “Bao giờ anh mới chán?”
Câu hỏi này anh suy nghĩ lan man
Nói sao nhỉ? Cuộc đời này chán thật,
Một kiếp người mang khát vọng dở dang.
“Anh vẫn nghĩ, cuộc đời sao chán quá
Hết ngày này, rồi tháng khác trôi qua
Rồi công danh, sự nghiệp… đến tuổi già
Trong phút chốc thành hư vô, huyền ảo.
“Cho đến ngày anh gặp em trong mộng
Bỗng thấy mình như sống lại, chờ mong
Bao buồn chán bỗng dưng tan biến mất
Một nụ cười cũng đủ xóa hư không!
“Kể từ đó, anh không còn biết chán
Khi nhìn em như một giọt sương tan
Như người say nhìn đáy cốc rượu tàn
Và như thế… cuối đời anh viên mãn!
Thơ
tình tời trai trẻ thật muôn mặt, kể cả những lúc thất tình chỉ mong toàn điều
xấu xảy đến với người mình yêu. Phải chăng đó là phản ứng “trả thù” vì đã yêu mà không được đáp lại:
“Gió rung rầm rập mái lầu
Nghe như đinh đóng trên đầu người yêu!
Mưa rơi sầm sập mái ngoài
Dường như đinh đóng quan tài tình yêu!
“Mưa rơi, mưa đổ mỗi chiều
Mình ta lặng ngắm người yêu lìa đời!
Mưa rơi, mưa mãi không thôi
Làm sao như thể xa rồi người ơi!
“Trời cho mưa gió, chi trời
Lòng ta một nỗi rối bời tâm can.
Ước gì không phải là nàng
Để ta không phải ngỡ ngàng tình si!
Năm
tháng trôi qua, tôi thấy mình bắt đầu già và chỉ còn lại một mình. “Độc hành” là tựa một bài thơ của một
người bỗng cảm thấy cô đơn sau khi đã bon chen với đời… mà đời thì lại dửng
dưng với kẻ đã từng lăn lộn trong guồng máy vô tình:
“Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Xa hoa, lộng lẫy… một mình tôi
Có ai thấu được lòng tôi với
Xin góp dùm tôi… chỉ một lời!
“Tôi vẫn ngồi đây quá nừa đời
Buồn vui lẫn lộn… chỉ mình tôi
Ai người thấu được đời phiêu lãng
Một kẻ lang thang rất kiệm lời.
“Cứ thế mà trôi đến cuối đời
Sang hèn, tủi nhục… một mình tôi
Đến nay biết được thì tôi đã
Gần đất, xa trời… bỏ cuộc chơi!
Tôi
“Tự trào” qua một bài thơ ngũ ngôn,
chữ thì ít nhưng lại truyền tải một ý thật dài để diễn tả cuộc đời của một kẻ
mà người ta thường ca tụng “thất thập cổ
lai hy”:
“Trông gầy như que tăm,
Ít đi, chỉ muốn nằm
Tuổi già ngày chồng chất,
Ngày tháng bỗng lạnh căm!
“Húp cháo ngon hơn cơm,
Thịt thà trông phát ớn
Còn đâu tái, nạm, gầu
Những ngày ăn phở sớm.
“Cá là bạn thiết thân
Dễ nhai, chẳng phải nhần
Răng cái còn, cái mất
Cố gắng mà nuôi thân.
“Cá là bạn thiết thân
Dễ nhai, chẳng phải nhần…”
Cuộc
gặp gỡ với Nàng Thơ xin được chấm dứt bằng ”Chân
dung tự họa” viết năm 2022. Tôi nhìn thấy mình như một bộ xương khô hữu dụng
cho các sinh viên trường Y để nghiên cứu về xác thân con người. Đó là việc làm
hữu ích cuối cùng để giúp đời trước khi nhắm mắt:
“Bày mươi năm... tuổi có dư
Thêm bốn năm nữa là tròn tám mươi
Cầm tinh con chó giữ nhà
Thức khuya dậy sớm cùng gà gáy vang.
“Cơm ba bốn bữa ăn vào
Mà sao thân thể lúc nào cũng teo
Xương trên, xương dưới thi nhau
Xuất đầu, lộ diện trước sau đuề huề.
“Tay chân cà khẳng, cà kheo
Mắt mờ nên phải kinh đeo cả ngày
Ngủ thì chợp mắt tỉnh queo
Như con mèo ướt meo meo góc giường.
“Sáng ra nhìn lại trong gương
Thấy nguyên một bộ xương khô đứng nhìn
Ai đây? Ngợm chẳng ra người
Hồn ma, bóng quế miệng cười thấy ghê!
“Chân dung tư họa rõ phiền
Có ai thông cảm nỗi niềm… bộ xương?
Mai đây xin việc Trường Y
Bộ xương cách trí giúp nhiều sinh viên.!
Hi
vọng những vần thơ vụng về của một kẻ "ngoại
đạo" như tôi sẽ không khiến những bậc đàn anh, đàn chị phải "bit mũi" như Cao Bá Quát ngày
nào!
***
(*)
Cao Bá Quát (1808-1855) sống cùng thời với Phó bảng Nguyễn Văn Siêu (1795-1872)
nổi tiếng về tài thơ văn, đồng thời là kiến trúc sư xây dựng nên quần thể đền
Ngọc Sơn, Đài Nghiên, Tháp Bút, cầu Thê Húc ở Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội. Cả hai ông
đều được người đương thời xưng tụng là “Thần
Siêu, Thánh Quát” hay như “Văn như
Siêu Quát vô tiền Hán”.
***










.jpg)



.jpg)












%20%C4%91%E1%BA%BFn%20tr%E1%BB%A5%20s%E1%BB%9F%20%E1%BB%9F%20t%E1%BB%89nh%20m%E1%BB%9Bi%20h%E1%BA%BFt%201%20gi%E1%BB%9D%2049%20ph%C3%BAt.jpg)