Lệ
Thần Trần Trọng Kim (1883-1953) là một sử gia thời cận đại. Người ta biết đến
ông qua tác phẩm chính “Việt Nam sử lược”
gồm 5 Phần: (1) Thượng Cổ thời đại; (2) Bắc Thuộc thời đại; (3) Tự Chủ thời đại;
(4) Nam Bắc Phân Tranh thời đại; và (5) Cận Kim thời đại.
Trong
vai trò của nhà viết sử, Trần Trọng Kim đã cố gắng kể lại những “thời đại” mà
Việt Nam đã trải qua, từ thời Thượng cổ, khởi đầu từ nước Âu Lạc, đến thời cận
kinh dưới triều vua Gia Long. Bằng một giọng văn, có thể nói là “trung thực” của
người chép sử, ông đã cho người đọc, vốn là những kẻ hậu sinh, có một cái nhìn
tổng quát về những giai đoạn lịch sử.
Học giả Trần Trọng Kim (1883-1953)
Phần
Tựa của “Việt Nam sử lược” tác giả đã
nêu lên quan điểm của một nhà sử học:
“Sử là sách không những
chỉ để ghi chép những công việc đã qua mà thôi, nhưng lại phải suy xét việc gốc
ngọn, tìm tòi cái căn nguyên những công việc của người ta đã làm để hiểu cho rõ
những vận hội trị loạn của một nước, những trình độ tiến hóa của một dân tộc.
Chủ đích là để làm cái gương chung cổ cho người cả nước được đời đời soi vào đấy
mà biết cái sự sinh hoạt của người trước đã phải lao tâm lao lực những thế nào,
mới chiếm giữ được cái địa vị ở dưới bóng mặt trời này”.
Ngược
dòng thời gian, mãi đến thế kỷ thứ 13, nước ta đời nhà Trần mới có lịch sử dưới
hình thức ghi chép các sự kiện quan trọng của các đời vua theo lối “biên niên sử”
của Trung Hoa. Lối ghi chép đó, theo Trần Trọng Kim, thiếu hẳn sự giải thích nguyên
nhân cùng những hậu quả của sự việc.
Vấn
đề ở đây là “công tâm” của người viết sử khi kể lại chuyện lịch sử. Mà đã là
con người thì cái vòng “tham, sân, si” luôn luôn chi phối, đối sừ gia đó cũng
không phải là ngoại lệ. Thế cho nên, hậu thế khi đọc sử cần có sự sáng suốt
trong việc đánh giá một sử gia.
“Việt Nam Sử Lược” (bản in trước năm 1975)
Có
điều chắc chắn, một người viết sử, không ít thì nhiều, luôn bị những tình cảm
và chính kiến chi phối khi kể lại. Trần Trọng Kim nhận xét về lịch sử và trình
độ hiểu biết về sử của người Việt ngày xưa:
“Sử của mình đã không
hay, mà người mình lại không mấy người biết sử. Là vì cái cách học tập của mình
làm cho người mình không có thể biết được sử nước mình. Bất kỳ lớn nhỏ, hễ ai cắp
quyển sách đi học thì chỉ học sử Tàu,chứ không học sử nước nhà. Rồi thơ phú văn
chương gì cũng lấy điển tích ở sử Tàu, chứ chuyện nước mình thì nhất thiết
không nói đến. Người mình có ý lấy chuyện nước nhà làm nhỏ mọn không cần phải
biết làm gì. Ấy cũng là vì xưa nay mình không có quốc văn, chung thân chỉ đi mượn
tiếng người, chữ người mà học, việc gì cũng bị người ta cảm hóa, chứ tự mình
thì không có cái gì là cái đặc sắc, thành ra thật rõ như câu phương ngôn:
"Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng!" Cái sự học vấn của mình
như thế, cái cảm tình của người trong nước như thế, bảo rằng lòng vì dân vì nước
mở mang ra làm sao được?”
“Việt Nam Sử Lược” (bản in sau năm 1975)
Nếu
“Việt Nam sử lược” được coi là “chính
sử” thì tác phẩm thứ hai, “Một cơn gió bụi”,
lại được nhiều người đọc gọi là “hồi ức lịch sử”. Khi nói đến “hồi ức” người ta
liên tưởng đến những biến cố mà chính tác giả có dự phần.
Tác
phẩm thứ hai của Trần Trọng Kim lấy bối cảnh là nước Việt Nam từ năm Quý Mùi
(1943) đến năm Mậu Tý (1948). Tác giả kể lại những biến cố trong suốt thời gian
được mô tả là “gió bụi” trong suốt cuộc đời của mình. Đó cũng là giai đoạn mà
nước Việt trải qua một xung đột ý thức hệ chính trị mới, từ đó dẫn đến cuộc chiến
tranh Việt Nam với sự tham gia của hai khối Tư Bản và Cộng Sản. Viết về Việt
Minh, sử gia Trần Trọng Kim giải thích:
“Ðảng Việt Minh là gì
và do đâu mà ra. Trước thì ít người biết rõ căn nguyên, sau đi đây đó xét hỏi kỹ
càng mới biết rõ nguồn gốc. Thoạt đầu vào khoảng năm 1938 ở bắc việt đã nghe
nói có đảng Việt Minh hành động ở mạn thượng du, nhưng lúc ấy ai cũng tưởng là
một đảng cách mệnh mới nào đó nên không để ý đến mấy.
“Nguyên từ khoảng
1925-1926 trở đi, ở Việt Nam đã có người nói đến chủ nghĩa cộng sản. Lúc ấy có
một thiếu niên tên Nguyễn Tất Thành, sinh năm 1894, con nhà thi lễ, quê làng
Kim Liên huyện Nam Ðàn thuộc tỉnh Nghệ An. Trước học trường trung học ở Huế rồi
bỏ sang Pháp theo Xã Hội Ðảng, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc.
“Sau lại sang Nga vào
đảng Cộng Sản, đến khoảng 1929-1930 ông trở về gây phong trào cộng sản cách mệnh
ở vùng Nghệ Tĩnh. Lúc ấy chính phủ bảo hộ Pháp dùng võ lực đàn áp một cách tàn
nhẫn. Việc ấy thất bại, đảng cộng sản tuy phải im hơi lặng tiếng, nhưng vẫn ngấm
ngầm tuyên truyền trong đám dân gian và thợ thuyền, theo đúng phương pháp đã định
ở Mạc Tư Khoa bên Nga.
“Trong khoảng thời
gian ấy, Nguyễn Ái Quốc lánh sang Hương Cảng, bị người Anh bắt. Người Pháp muốn
đòi người Anh giao trả cho chính phủ Ðông Dương, song theo tục lệ Anh, người
Anh không giao trả những người can phạm vào việc chính trị, vì vậy ông phải
giam ít lâu rồi được tha và bị đuổi ra khỏi Hương Cảng.
“Ông Nguyễn Ái Quốc
sang Quảng Châu và phao tin rằng ông đã chết trong ngục khi bị bắt ở Hương Cảng,
và lại đổi tên là Lý Thụy rồi chen lẫn với những người cách mệnh Việt Nam ở bên
Tàu. Vào khoảng 1936-1937 ông lập ra đảng cộng sản gọi là Việt Nam Ðộc Lập Ðồng
Minh, gọi tắt là Việt Minh, và cho người về hoạt động ở miền thượng du Bắc việt.
Vì vậy thuở ấy người ta mới biết là có đảng Việt Minh.
“Ðến cuối năm 1940
nhân khi quân Nhật Bản ở Quảng Tây đánh vào Lạng Sơn, những người như bọn ông
Trần Trung Lập trong đảng Việt Nam Quang Phục Hội của ông Phan Bội Châu lập ra
khi trước, theo quân Nhật về đánh quân Pháp hồi tháng chín năm 1940. Sau vì người
Nhật ký hiệp ước với người Pháp rồi trả lại thành Lạng Sơn cho người Pháp, ông
Trần Trung Lập bị quân Pháp bắt được đem xử tử. Toán quân phục quốc vỡ tan, có
một số độ 700 người, trong số ấy có độ 40 nữ đảng viên theo ông Hoàng Lương chạy
sang Tàu.
“Vậy các đảng của người
Việt Nam ở bên Tàu vào khoảng năm 1942 trở đi, có Việt Nam Phục Quốc Ðồng Minh
Hội, Việt Nam Quốc Dân Ðảng và những người cách mệnh không có đảng phái
v...v...
(hết
trích)
“Một cơn gió bụi” (bản in sau và trước 1975)
Chính
phủ Trung Hoa thấy những đảng viên Việt Minh có khuynh hướng theo chủ nghĩa cộng
sản nên ra lệnh giải tán và bắt Lý Thụy giam trong hang đá ở Liễu Châu. Mặt
khác, họ ra lệnh cho tướng Trương Phát Khuê tập hợp các đảng phái cách mệnh Việt
Nam lập thành một đảng để hành động cho có hệ thống. Trương Phát Khuê giao cho
ông Hoàng Lương trù liệu việc ấy.
Ngày
1/10/1942, tại Liễu Châu, ông Hoàng Lương tập họp các nhà cách mệnh để thành lập
một đảng lấy tên “Việt Nam Cách Mệnh Ðồng
Minh Hội”, gồm đại biểu các đảng
Việt
Nam Phục Quốc Ðồng Minh Hội (Hoàng Lương và Hồ Học Lãm), Việt Nam Quốc Dân Ðảng
( Vũ Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ). Bên cạnh đó còn các thành phần “không đảng
phái” gồm các ông Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Trần Báo, Trương Trung Phụng.
Số phận của Lý Thụy (người sau này có tên Hồ Chí Minh) được Trần Trọng Kim tiết
lộ như sau:
“Lúc ấy Lý Thụy còn
phải giam, ủy ban trừ bị đứng ra bảo đảm với chính phủ Trung Hoa, xin lĩnh ra để
cùng làm việc. Theo lời một người Việt Nam có mặt trong hội nghị ấy đã nói: Lý
Thụy có kết nghĩa với một người cộng sản Tàu tên là Hầu Chí Minh, làm chức thiếu
tướng trong quân đội thuộc quyền chỉ huy của Trương Phát Khuê. Khi ở nhà ngục
ra, ông muốn tỏ tình thân ái với bạn mới lấy tên là Hồ Chí Minh. Khi ông được
tha ra, liền tuyên thệ xin hết lòng trung thành với Việt Nam Cách Mệnh Ðồng
Minh Hội mà làm việc”.
Nhật báo Điện tín loan tin Đế quốc Việt Nam độc lập năm 1945
Thời
điểm nổi bật trong cuộc đời “chính trị bất đắc dĩ” của nhà viết sử họ Trần là
lúc ông đứng ra thành lập chính phủ năm 1945 trong tình trạng Pháp và Nhật đang
tranh dành ảnh hưởng tại Việt Nam. Trước đó, tiên sinh đã rời đất nước để sang
“tị nạn” tại “Chiêu Nam Đảo” mà ngày nay là đất nước Singapore. Từ Singapore
ông lại đi xe lửa về Bangkok, Thái Lan,
và cuối cùng là về Huế để thành lập chính phủ theo yêu cầu của Vua Bảo Đại
với sự hỗ trợ của người Nhật.
“Một cơn gió bụi” ghi lại những cảm tưởng
về Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, qua cuộc hội kiến lần đẩu tiên tại
Huế:
“Từ trước tôi không
biết vua Bảo Ðại là người như thế nào. Vì trong thời bảo hộ của nước Pháp, hình
như ngài chán nản không làm gì cả, chỉ săn bắn và tập thể thao. Hôm mùng 7
tháng tư tôi vào yết kiến thấy có vẻ trang nghiêm và nói những điều rất đúng đắn.
“Ngài nói: “Trước kia
nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân
Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên
bộ thượng thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương việc nước
và lập chính phủ để đối phó với mọi việc.“
“Tôi tâu rằng: “Việc
lập chính phủ, ngài nên dùng những người đã dự định từ trước, như Ngô Ðình Diệm
chẳng hạn, để có tổ chức sẵn sàng. Tôi nay thì phần già yếu bệnh tật, phần thì
không có đảng phái và không hoạt động về chính trị, tôi xin ngài cho tôi về nghỉ.“
“Ngài nói: “Trẫm có
điện thoại gọi cả Ngô Ðình Diệm về, sao không thấy về.“
“Tôi tâu: “Khi tôi
qua Sài gòn, có gặp Ngô Ðình Diệm và ông ấy bảo không thấy người Nhật nói gì cả.
Vậy hoặc có sự gì sai lạc chăng. Ngài cho điện lần nữa gọi ông ấy về. Còn tôi
thì xin ngài cho ra Bắc”.
“Ngài nói: “Vậy ông
hãy ở đây nghỉ ít lâu, xem thế nào rồi hãy ra Bắc.“
“Lúc ấy tôi mệt nhọc
lắm, và có mấy người như bọn ông Hoàng Xuân Hãn đều bảo tôi trở lại. Tôi chờ đến
gần mười ngày. Cách độ ba bốn hôm tôi lại đi hỏi ông tối cao cố vấn Nhật xem có
tin gì về ông Diệm chưa. Trước thì cố vấn Nhật nói chưa biết ông Diệm ở đâu,
sau nói ông Diệm đau chưa về được. Ðó là lời tối cao cố vấn, chứ tự ông Diệm
không có điện riêng xác định lại.
“Vua Bảo Ðại thấy
tình thế kéo dài mãi cũng sốt ruột, triệu tôi vào bảo tôi chịu khó lập chính phủ
mới. Ngài nói: “Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải
độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có
chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ
nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ
để lo việc nước.“
“Tôi thấy vua Bảo Ðại
thông minh và am hiểu tình thế, liền tâu rằng: “Nếu vì quyền lợi riêng tôi
không dám nhận chức gì cả, xong ngài nói vì nghĩa vụ đối với nước, thì dù sao
tôi cũng cố hết sức. Vậy xin ngài cho tôi vài ngày để tôi tìm người, hễ có thể
được tôi xin tâu lại.“
“Tôi ra bàn với ông
Hoàng Xuân Hãn để tìm người xứng đáng làm bộ trưởng. Nguyên tắc của tôi định
trước là lựa chọn những người có đủ hai điều kiện. Một: phải có đủ học thức và
tư tưởng về mặt chính trị, hai: phải có đức hạnh chắc chắn để dân chúng kính phục”.
(hết
trích)
Vua Bảo Đại ở Hồng Kông năm 1948 sau khi chấp nhận sống
lưu vong
Cuối
cùng, nội các Trần Trọng Kim cũng ra mắt đồng bào ngày 17/04/1945 với thành phần
gồm một giáo sư, hai kỹ sư, bốn bác sĩ và bốn luật sư. Nhà sử học, nhà giáo và
là “nhà chính trị bất đắc dĩ” Trần Trọng Kim tiết lộ trong hồi ức của mình:
“Có một điều nên nói
cho rõ, là trong khi tôi chọn người lập chính phủ lúc ấy, người Nhật Bản không
bao giờ hỏi tôi chọn người này người kia. Tôi được hoàn toàn tự chủ tìm lấy người
mà làm việc. Và tôi đã định từ trước rằng nếu người Nhật can thiệp vào việc
trong nước thì tôi thôi ngay, không làm nữa”.
Nội
các Trần Trọng Kim có danh sách cụ thể như sau:
-
Nội
các Tổng trưởng: giáo sư Trần Trọng Kim;
-
Nội
vụ Bộ trưởng: y sĩ Trần Ðình Nam;
-
Ngoại
giao Bộ trưởng: luật sư Trần Văn Chương;
-
Tư
pháp Bộ trưởng: luật sư Trịnh Ðình Thảo;
-
Giáo
Dục và Mỹ Nghệ Bộ Trưởng: toán học thạc sĩ Hoàng Xuân Hãn;
-
Tài
Chánh Bộ Trưởng: luật sư Vũ Văn Hiền;
-
Thanh
Niên Bộ Trưởng: luật sư Phan Anh;
-
Công
Chính Bộ Trưởng: kỹ sư Lưu Văn Lang;
-
Y
tế Bộ trưởng: y khoa bác sĩ Vũ Ngọc Anh;
-
Kinh
tế Bộ trưởng: y khoa bác sĩ Hồ Bá Khanh;
-
Tiếp
tế Bộ trưởng: cựu y sĩ Nguyễn Hữu Thi.
Tiếc
thay, nội các “Đế quốc Việt Nam” của học giả Trần Trọng Kim chỉ tồn tại hơn 4
tháng, từ ngày 17/04 đến 25/08/1945. Tuy nhiên, có 4 điều đặc biệt mà nội các
này đã thực hiện: (1) Lập lại quốc hiệu Việt Nam; (2) Dùng tiếng Việt làm quốc
ngữ và Việt hóa giáo dục; (3) Đòi lại Nam kỳ (Cochinchine) để thống nhất lãnh
thổ; và (4) Soạn hiến pháp nhấn mạnh tự do và độc lập.
Điểm
yếu của nội các là chưa có đủ thời gian cần thiết để thành lập Quốc hội, chưa
có quân đội và chưa được nước nào công nhận ngoài Đế quốc Nhật Bản. Nội các
này, sau hơn 4 tháng đã tan rã khi bị Việt Minh “cướp chính quyền”. Đây là cụm
từ không mang tính miệt thị, mà trái lại Việt Minh rất tự hào khi thừa nhận họ
đã “cướp chính quyền”!
Nội các Trần Trọng Kim
“Một cơn gió bụi” có đoạn viết về đảng
Việt Minh thời 1945, khi đó đang hoạt động mạnh, trong khi lính bảo an ở các địa
phương bị Việt Minh tuyên truyền, tuy chưa theo hẳn, nhưng không chống cự nữa.
Trần Trọng Kim viết:
“Dân gian bấy giờ rất
hoang mang, một đường có chính phủ quốc gia, nhưng vì thời gian eo hẹp, chưa kịp
sắp đặt gì cả. Công việc thấy có nhiều sự khốn khó mà thường nghe sự tuyên truyền
của Việt Minh, nói họ đã có các nước Ðồng Minh giúp đỡ cho nước Việt Nam được
hoàn toàn độc lập. Dân ta từ khi bị người Pháp sang cai trị, cứ khao khát độc lập,
nay nghe Việt Minh nói thế, lại nghe nói đảng Việt Minh lên cầm quyền, dân
không phải đóng thuế nữa, được hoàn toàn tự do và có nhiều hạnh phúc, thành ra
ai cũng tin theo. Ngay những đạo thanh niên tiền tuyến do bộ Thanh Niên lập ra,
cũng có ý ngã về Việt Minh”.
Trong
một lần tiếp xúc với một cán bộ Việt Minh, người này đã khẳng định với Thủ tướng
Trần Trọng Kim: “Chúng tôi sẽ cướp lấy
quyền để tỏ cho các nước Ðồng Minh biết chúng tôi mạnh, chứ không chịu để ai
nhường”. Cụm từ “cướp chính quyền” đã trở thành sự thật khi Nhật Bản đầu
hàng vì hai quả bom nguyên tử. Diễn biến lịch sử được nhà sử học thuật lại như
sau:
“Vua Bảo Ðại gọi tôi
vào nói: "Trong lúc rối loạn như thế này, các ông hãy lập ra lâm thời
chính phủ để đợi xem tình thế biến đổi ra sao đã". Tôi bất đắc dĩ phải tạm
ở lại. Lâm thời chính phủ vừa làm việc mấy ngày, ông Phan Kế Toại điện vào xin
từ chức. Lúc ấy bọn ông Nguyễn Xuân Chữ, Trần Văn Lai xin lập Ủy Ban Cứu Quốc.
Chính phủ nhận lời.
“Cách hai ngày sau,
ngày 19/8, các công chức ở Hà Nội nghe bọn Việt Minh xúi tổ chức cuộc biểu
tình. Ðảng Việt Minh nhân cơ hội ấy chiếm lấy Bắc Bộ. Ðược mấy ngày ông Hồ Chí
Minh về làm chủ tịch chính phủ lâm thời. Các đoàn thể thanh niên và các người
trí thức ở bắc bộ điện vào Huế xin vua Bảo Ðại thoái vị và nhường cho Hồ Chí
Minh.
“Trong tình thế nguy
ngập như thế, ở Huế còn có người bàn sự chống cự. Tôi muốn biết rõ sự thực, liền
gọi trung úy Phan Tử Lăng người đứng coi đoàn thanh niên tiền tuyến ở Huế, hỏi
xem có thể trông cậy bọn ấy được không. Trung úy Trương Tử Lăng nói: "Tôi
có thể nói riêng về phần tôi thì được. Còn về phần các thanh niên tôi không dám
chắc".
“Bọn thanh niên tiền
tuyến trước rất nhiệt thành nay còn thế, huống chi những lính bảo an và lính hộ
thành tất cả độ vài trăm người; những lính để canh giữ công sở, súng ống không
ra gì, đạn dược không đủ, còn làm gì được, cũng bị Việt Minh tuyên truyền xiêu
lòng hết cả rồi. Lúc ấy chỉ còn cách lui đi là phải hơn cả.
“Tôi vào tâu vua Bảo
Ðại: "Xin ngài đừng nghe người ta bàn ra bàn vào. Việc đã nguy cấp lắm rồi,
ngài nên xem lịch sử của vua Louis XVI bên Pháp và vua Nicholas II bên Nga mà
thoái vị ngay là phải hơn cả. Vì dân ta đã bị bọn Việt Minh tuyên truyền và
đang hăng hái về việc cách mệnh như nước đang lên mạnh, mình ngăn lại thì vỡ lở
hết cả. Mình thế lực đã không có, bọn Việt Minh lại có dân chúng ủng hộ, nên để
cho họ nhận lấy trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của nước".
“Vua Bảo Ðại là ông
vua thông minh, hiểu ngay và nói: "Trẫm có thiết gì ngôi vua đâu, miễn là
bọn Việt Minh giữ được nền tự chủ của nước nhà là đủ. Trẫm muốn là người dân của
một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ".
“Nhờ ngài có tư tưởng
quảng đại nên có tờ chiếu thoái vị. Khi tờ chiếu ấy tuyên bố ra, nhân dân có
nhiều người ngậm ngùi cảm động, nhưng lúc ấy phần tình thế nguy ngập, phần sợ
hãi, còn ai dám nói năng gì nữa. Ðến bọn thanh niên tiền tuyến, người chính phủ
tin cậy cũng bỏ theo Việt Minh, bọn lính hộ thành của nhà vua cũng không nghĩ đến
nữa. Còn các quan cũ lẫn nấp đâu mất cả. Thật là tình cảnh rất tiều tụy. Nếu
không mau tay lui đi, tính mệnh nhà vua và hoàng gia chưa biết ra thế nào.
“Lúc bấy giờ người Nhật
có đến bảo tôi: "Quân đội Nhật còn trách nhiệm giữ trật tự cho đến khi
quân Ðồng Minh đến thay. Nếu chính phủ Việt Nam công nhiên có lời mời quân Nhật
giúp, quân Nhật còn có thể giữ trật tự". Tôi nghĩ quân Nhật đã đầu hàng,
quân Ðồng Minh sắp đến, mình nhờ quân Nhật đánh người mình còn nghĩa lý gì nữa,
và lại mang tiếng "cõng rắn cắn gà nhà". Tôi từ chối không nhận.
“Sau thấy những người
ở ngoài không biết rõ tình thế nói: lúc ấy giá chính phủ không lui vội, tìm
cách chống cự lại, Việt Minh không làm gì được, vì họ không có binh lực gì cả.
Về đường binh lực, lúc ấy Việt Minh không không có gì thật. Nhưng cái phương lược
của họ đánh bằng tuyên truyền, bằng lối quỉ quyệt lừa dối để lôi kéo dân chúng
đi theo, chứ không đánh bằng binh khí. Sự tuyên truyền của họ đã có ngấm ngầm từ
lâu trước khi quân Nhật đảo chính chứ không phải bây giờ mới có. Mình đem một
vài trăm người trông cậy được ra chống với mấy vạn người toàn thanh niên thuyền
thợ và đàn bà trẻ con, lại có những người Việt Minh táo tợn đứng sau lưng xui
khiến, chống sao được? Chẳng qua chỉ gây một cuộc đổ máu vô ích, cốt chỉ bảo
cho Việt Minh chớ có cướp phá. Mình đã mở cửa mời họ còn đánh phá gì nữa. Lúc bấy
giờ chúng tôi nghĩ: họ đã thắng thế, dù sao họ cũng lo đến sự kiến thiết của nước
nhà, nên chúng tôi mong ít có sự phá hại.
(hết
trích)
Thế
là Việt Minh “cướp chính quyền”, vua Bảo Ðại thoái vị, và ông Trần Trọng Kim ra
ở nhà đã thuê từ trước tại làng Vĩ Dạ gần Huế. Ðược mấy ngày, Việt Minh vào đưa
vua Bảo Ðại, bấy giờ gọi là công dân Vĩnh Thụy, ra làm Tối Cao Cố Vấn ở Hà Nội
để dễ quản thúc.
Người
dân một phần vì tuyên truyền của Việt Minh, một phần vì không nắm rõ tình hình
nên có thái độ coi chính phủ non trẻ của ông Trần Trọng Kim là “bù nhìn” do người
Nhật sai khiến.
Chính
vua Bảo Ðại khi “lưu vong” ở Hồng Kông có nói chuyện với một phóng viên của một
tờ báo bên Pháp: "Người Nhật thấy
chúng tôi cương ngạnh quá, tỏ ý tiếc đã để chúng tôi làm việc".
Về
sau, khi vua Bảo Đại gặp lại Trần Trọng Kim tại Hồng Kông, vị vua cuối cùng của
triều Nguyễn đã nói một câu chua chát: “Chúng
mình một già một trẻ mắc lừa bọn du côn” với hàm ý đã nghe lời tuyên truyền
của Việt Minh.
Hồ Chí Minh và “công dân” Vĩnh Thụy
Để
kết thúc bài viết này về sử gia Trần Trọng Kim, chúng tôi xin trích một đoạn
nói lên nỗi lòng của ông:
“Cuộc đời của tôi đi
đến đấy đối với người ngoài cho là thật hiu quạnh, song tự tôi lại thấy có nhiều
thú vị hơn là những lúc phải lo toan làm công việc nọ kia, giống như người đóng
tuồng ra sân khấu, nhảy múa nhọc mệt rồi hết trò, đâu lại vào đấy. Ðàng này ngồi
yên một chỗ, ngắm rõ trò đời và tự mình tỉnh sát để biết cái tâm tình của mình.
Tôi nhớ lại câu cổ nhân đã nói:
"Hiếu danh bất
như đào danh, đào danh bất như vô danh". Muốn có danh không bằng trốn
danh, trốn danh không bằng không có danh”.
***
Tham
khảo:
***