Trong “Lời nói đầu” của cuốn sách “Học Báo Tiếng Anh”, do Nhà xuất bản
Thanh Niên ấn hành năm 1999, tác giả đã tâm sự:
“Học tiếng Anh tại trường lớp mang lại một số kiến thức cơ bản về ngôn ngữ. Tuy nhiên thực tế cho thấy có một khoảng cách rất lớn trong việc ứng dụng những kiến thức học hỏi từ giáo trình vào cuộc sống thực tế hàng ngày.
"Học Báo Tiếng Anh” là một phương tiện nhằm thu ngắn cách biệt giữ những kiến thức về ngoại ngữ và thực tiễn hàng ngày, giữa không gian nhỏ hẹp trong sách vở và môi trường rộng lớn của cuộc sống.
“Học Báo Tiếng Anh” là một công cụ nhằm “đời thường hoá” những kiến thức tiếng Anh vốn được thu thập qua các giáo trình khô khan tại trường lớp, đưa bạn đọc vào cuộc sống hàng ngày với những đề tài thời sự xuất hiện trên báo chí xuất bản bằng tiếng Anh cả trong và ngoài nước…
(hết trích)
“Học Báo Tiếng Anh” có 460 trang, trải dài với 122 bài viết
đã được đăng trên tạp chí “Kiến Thức Ngày
Nay” (KTNN). Bài viết bao gồm các lĩnh vực Chính trị (11 bài), Khoa học (19
bài), Kinh tế (36 bài), Thể thao (11 bài), Văn hoá (26 bài) và Xã hội (19 bài).
Chuyên mục
“Học Báo Tiếng Anh” chiếm 2 trang của KTNN mỗi kỳ. Dưới đây là một số trích dẫn
những bài viết đã đăng:
* Chính trị: “Reform hay Renovation ?”
“Ông Roy Morey là “đại diện” (representative) của “Liên Hiệp Quốc” (The United Nations - UN) và “Chương trình phát triển của LHQ” (UN Development Programme - UNDP) tại Việt Nam trong hơn 4 năm qua. Trước khi ông chấm dứt “nhiệm kỳ” (tenure, term) để nhận “chức vụ mới” (new posting), “Vietnam Investment Review” (VIR) đã có bài phỏng vấn mang tựa đề “UNDP chief urges haste for reform” trên số báo ra ngày 23-29/12/96.
“Được hỏi về những “thành tựu” (chievements) của UNDP, ông Morey cho biết: “The most significant aspects” (khía cạnh quan trọng nhất) of the UNDP during the last four-and-a-half years are the ways in which the UNDP programmes in Vietnam is to assist with the implementation of the “doi moi” policy”.
(hết trích)
* Khoa học: “Cơn sốt ‘thần dược’ Viagra”
“Đằng sau những cái tên của sản phẩm, giới chuyên môn gọi là “nhãn hiệu đăng ký”, “nhãn hiệu cầu chứng” hoặc “nhãn hiệu trình toà” (registered trademark), là cả một quá trình sáng tạo của các nhà sản xuất. “Thần dược” (magic drug) Viagra, một trong những đề tài thời sự nóng bỏng trong giới y học vào đầu tháng 4/98, là một thí dụ điển hình về chuyện đặt tên sản phẩm.
“Trước khi nói đến tác dụng của loại thuốc trị “chứng nhược dương” (impotence) này, xin bàn đến cái tên Viagra mà nhà sản xuất “Pfizer” (fai-zơ) đã sáng tạo ra. Đây là lối chơi chữ qua việc ghép hai từ “vigor” (sự cường tráng) và Niagara, “thác nước ngoạn mục” (spectacular falls) với độ cao 50m nằm giữa biên giới Mỹ và Canada, tượng trưng cho “sức mạnh vô biên” (immense power).
(hết trích)
* Kinh tế: “Thị trường chứng khoán”
“Trong thời gian gần đây, “Thị trường chứng khoán” (stock market) là một “đề tài thới sự” (topic of current interest) được mọi người quan tâm. Báo “Vietnam Investment Review” (ngày 2 - 8/6/97) đã phỏng vấn ông Lê Văn Châu, “thành viên” (member) trong “Uỷ ban Thị trường Chứng khoán” (National Stock Market Committee), về “tiến trình thực hiện” (implementation process) và “hoạt động” (operation) của “Thị trường Chứng khoán” (TTCK) trong tương lai.
“Được hỏi về “thời gian thích hợp nhất để mở TTCK” (the most suitable time for stock market to open), ông Châu cho biết câu trả lời “tuỳ thuộc vào hai yếu tố có liên quan chặt chẽ với nhau” (depend on two closely related factors): (1) “nhu cầu” (need) và (2) “các điều kiện bảo đảm đáp ứng được nhu cầu này” (conditions secured for the satisfaction on this need).
(hết trích)
* Thễ thao: “Mike Tyson và đòn “mộc nhĩ”
“Chuyện xảy ra trên võ đài “khi chỉ còn 38 giây” (38 seconds left) trước lúc kết thúc “hiệp 3” (round 3). Hãng thông tấn “AP” (Associated Press) tường thuật: “Hollyfield jumped” (nhảy) up and down after being bitten on the right ear by Tyson…”
“Sau khi bị cắn (after being bitten), “vành tai phải” (right ear lobe) của Holyfield đã “chảy máu dầm dề” (bleeding badly) và “trọng tài” (referee) Mill Lane phải cho ngưng hiệp đấu để bác sĩ săn sóc vết thương. Tyson “bị phạt” (penalized) “một điểm” (one point) vì “cú húc bằng miệng” (butting in the mouth) thay vì “cú húc đầu” (head butt) như thường thấy trong “quyền Anh” (boxing) khi các “võ sĩ” (boxer) “nhập nội” (clinch).
(hết trích)
* Văn hoá: “Chuyện bên lề giải Oscar”
“A night to remember” là hàng tít chạy trên bản tin của hãng thông tấn Mỹ Associated Press (AP) bài tường thuật buổi lễ trao giải Oscar lần thứ 70 của “Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh” (Academy of Motion Picture Arts and Sciences – AMPAS) được tổ chức đêm 23/03/98 tại Hollywood, Los Angeles.
Đây củng là đêm đáng nhớ của bộ phim Titanic với 11 giải Oscar, ngang hàng với bộ phim Ben-Hur cũng đoạt 11 Oscar vào năm 1959… James Cameron, người đoạt giải Oscar “Đạo diễn Xuất sắc” (Best Director) với bộ phim Titanic đã không dấu được xúc động: “… I just want to say… we’re here tonight to celebrate to the magic movies (sự kỳ diệu của điện ảnh) and I grateful every day to get to be a part of that magic, and a practitioner in it… and I love it… and tonight has been such a great celebration for us”.
(hết trích)
* Xã hội: “Khi nhà báo chơi chữ”
“Chơi chữ” (word play, play on words) là một nghệ thuật thuờng được áp dụng trong “văn chương” (literature) nói chung và trong “báo chí” (journalism) nói riêng. Để có thể “chơi” được với “chữ và nghĩa”, người cầm bút cần “một trình độ hiểu biết cao về ngôn ngữ” (a high level of language skills) cộng thêm “óc sáng tạo” (creativeness) và một chút “ý khôi hài” (sense of humor).
“Tờ Newsweek (22/6/98) bàn về hiện tượng “mua bán “vũ khí” (arms sales) tại châu Á với một tiêu đề thật hóm hỉnh “No Funds, No Guns”. Đây là lối “nhại chữ” (paraphrase) theo câu nói phổ biến của người phương Tây “No money, no honey” với hàm ý “thực dụng” (practical) trong quan niệm “tình yêu nặng về vật chất” (material love): không tiền bạc, không tinh yêu!
(hết trích)
Như đã nói ở
trên, cuốn sách “Học Báo Tiếng Anh” gồm
122 bài viết trong năm 1997-1998 được xuất bản năm 1999 trong khi đó trên thực
tế, tác giả còn giữ bản thảo những bài viết trong các năm tiếp theo với số lượng
lên đến gần 500 bài đã đăng trong mục “Học
Báo Tiếng Anh” trên tạp chí KTNN.
Nói chung, cuốn sách ra đời đã nhận được sự ủng hộ của người đọc, nhất là những người quan tâm đến tiếng Anh. Ngoài ra, cũng cần phải nói đến báo chí trong nước đã có những bình luận “có cánh” giúp cuốn sách lan toả rộng đến bạn đọc.
Báo Sài Gòn Tiếp Thị, ngày 4/9/1999, nhận xét: “... Đây cũng là công cụ nhằn thu ngắn cách biệt giữa kiến thức về ngoại ngữ tại trường lớp với thực tiễn cuộc sống hàng ngày...”
Báo Người Lao Động, số ra ngày 10/9/1999, giới thiệu: “... Người có trình độ tiếng Anh từ cao trung (upper-intermediate) trở lên, nếu chỉ quen cái học giáo khoa ‘bài bản’ ở trường lớp thì thường không dễ dàng đọc trôi một bài báo ngắn do ký gỉa nước ngòai viết một cách ‘lành nghề’... “Học Báo Tiếng Anh” của Nguyễn Ngọc Chính có thể giúp giải quyết một phần nào khó khăn ấy...”
Sài Gòn Giải phóng Thứ Bảy (phụ trương của nhật báo Sài Gòn Giải phóng), ngày 11/9/1999, phân tích: “... ‘Phương pháp Nguyễn Ngọc Chính’ về học tiếng Anh... So với phương pháp truyền thống của nhà trường có rất nhiều điểm mới...”
Quả là một
trải nghiệm đáng nhớ trong cuộc đời cầm bút của tác giả khi đã lỡ lạc vào lãnh
vực văn chương – xuất bản. Tôi gọi đó là “Tham
vọng Văn chương”!
***

.jpg)


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét