Lời giới thiệu của NNC:
Cụ
Lê Đỗ Kỳ có người con trai cả là Lê Đỗ Khôi, hy sinh tại Điện Biên Phủ 5 tiếng
đồng hồ trước khi quân ta cắm cờ trên sở chỉ huy của Pháp. Tiếp đó là Lê Đỗ
Nguyên, tức Trung tướng Hồng Cư. Em ông Cư là Lê Đỗ An, tức Nguyễn Tiên Phong,
sau là Bí thư Trung ương Đoàn TNCS HCM. Em ông Nguyên là Đại tá Lê Đỗ Thái. Hai
ông Hồng Cư và Lê Đỗ Thái hiện sống ở Hà Nội và đều lấy con gái GS. Đặng Thai
Mai.
Bài thơ phổ biến tại Miền Nam không những qua sách báo, mà còn được phổ nhạc, hát rộng rãi trên đài phát thanh, các buổi trình diễn văn nghệ trên sân khấu, nhất là vào những năm thập niên 60 của thế kỷ 20. Bài thơ đả được các nhạc sĩ Dzũng Chinh, Phạm Duy, Anh Bằng, Duy Khánh, Nguyễn Đặng Mừng, Thu Hồ, Hồng Vân... phổ nhạc.
Bản
“Màu tím hoa sim” thời ấy ngắn hơn bản
tác giả công bố sau này. Bản cũ chấm hết ở mấy câu: “Tôi hát trong màu hoa. Áo anh sứt chỉ đường tà. Vợ anh mất sớm, mẹ già
chưa khâu” chứ không có thêm “Tôi ví
vọng về đâu. Tôi với vọng về đâu. Áo anh nát chỉ dù lâu...” ở cuối bài như
sau này:
“Khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh”
Nàng có ba người anh đi bộ đội
Những em nàng
Có em chưa biết
nói
Khi tóc nàng
xanh xanh
Tôi người Vệ
quốc quân
xa gia đình
Yêu nàng như
tình yêu em gái
Ngày hợp hôn
nàng không đòi
may áo mới
Tôi mặc đồ
quân nhân
đôi giày đinh
bết bùn đất
hành quân
Nàng cười xinh
xinh
bên anh chồng
độc đáo
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong
là đi
Từ chiến khu
xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng thời
chiến binh
Mấy người đi
trở lại
Nhỡ khi mình
không về
thì thương
người vợ chờ
bé bỏng chiều
quê...
Nhưng không chết
người trai
khói lửa
Mà chết
người gái nhỏ
hậu phương
Tôi về
không gặp nàng
Má tôi ngồi
bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa
ngày cưới
thành bình
hương
tàn lạnh vây
quanh
Tóc nàng xanh
xanh
ngắn chưa đầy
búi
Em ơi giây
phút cuối
không được
nghe nhau nói
không được
trông nhau một lần
Ngày xưa nàng
yêu hoa sim tím
áo nàng màu
tím hoa sim
Ngày xưa
một mình đèn
khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng
tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng
mưa
Ba người anh
trên chiến trường Đông Bắc
Được tin em
gái mất
trước tin em lấy
chồng
Gió sớm thu về
rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn
lên
Ngỡ ngàng nhìn
ảnh chị
Khi gió sớm
thu về
cỏ vàng chân mộ
chí
Chiều hành
quân
Qua những đồi
hoa sim
Những đồi hoa
sim
những đồi hoa
sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa
sim
tím chiều
hoang biền biệt
Có ai ví như từ
chiều ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ
đường tà
Vợ anh chưa có
mẹ già chưa khâu
Ai hỏi vô tình
hay ác ý với nhau
Chiều hoang
tím có chiều hoang biết
Chiều hoang
tím tím thêm màu da diết
Nhìn áo rách
vai
Tôi hát trong
màu hoa
Áo anh sứt chỉ
đường tà
Vợ anh mất sớm,
mẹ già chưa khâu...
Màu tím hoa
sim, tím tình trang lệ rớm
Tím tình ơi lệ
ứa
Ráng vàng ma
và sừng rúc điệu quân hành
Vang vọng chập
chờn theo bóng những binh đoàn
Biền biệt hành
binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím
Tôi ví vọng về
đâu
Tôi với vọng về
đâu
Áo anh nát chỉ
dù lâu...
***
Bài viết của Cung Tích Biền:
Thật
hạnh ngộ khi chúng tôi được gặp nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa
Sim, cùng một số vị trong vụ án Nhân văn – Giai phẩm, những năm từ 1957 về sau,
trên đất Bắc.
Sau tháng Tư 1975, trước khi nhà thơ Hữu Loan có dịp vào Nam, đã có một số thân hữu từ miền Nam ra Bắc thăm ông. Khó có thể mô tả cảnh nghèo khó của gia đình ông thuở ấy, lại khó hình dung ra cái tình cảnh cô đơn của một Hữu Loan bị chính quyền cô lập trong bao nhiêu năm.
Ông vào thăm Sàigòn khá muộn màng, có thể do điều kiện kinh tế quá khó khăn. Anh em chúng tôi có dàn xếp một ngày để tiếp ông. Cà phê sáng, dùng cơm trưa, buổi chiều đưa ông đi dạo chơi đó đây. Thuở ấy chỉ toàn xe đạp, sang trọng tí chút là xe gắn máy. Ông rất hồi hộp khi ngồi yên sau xe gắn máy. Ông luôn bảo “Đèo nhau xe đạp, chậm rãi, thì bình an hơn”.
Quán
cà phê vườn khá rộng. Khi anh Duy đưa Hữu Loan tới, quanh bàn chúng tôi đã có
Tô Kiều Ngân, Bùi Giáng, mấy anh em văn nghệ, có cả một lúc có hai cô, Huyền
Tr. và Thúy V. một cô là ca sĩ, cô kia đang là diễn ngâm thơ cho đài phát
thanh, trong các chương trình thi ca.
Hữu Loan, thoạt nhìn như một pho tượng, sạm một màu đất nung. Khuôn mặt chữ điền, tóc dài, trán rộng, sống mũi thẳng, cao. Tôi nghiêng người chào ông. Ông nở nụ cười. Một nụ cười cẩn thận, nói rằng thân thiện là chưa đúng. Một cái bắt tay của giao tế, dè chừng. Sống ở miền Nam, sau cơn dâu bể, nay gặp anh trở về, gặp chị ngoài kia vô, chào một nhà văn xứ Bắc vừa chạm mặt, tôi nhận ra tất cả họ đều có một hành xử khá giống nhau.
Bây giờ ông đang trước mặt. Với ly cà phê đen, bữa nay tôi có cái để mà Nhớ Lại, có cái để được Ngắm Nhìn. Hữu Loan, Ông từ đâu tới!
Trò
chuyện với Hữu Loan, mến ông là một người khá hiểu biết về văn chương, học thuật.
Dễ là chốn tri âm, tương phùng. Có thể do ông là người có học hành tử tế, trưởng
thành vào thời kỳ nước nhà còn lưu giữ những nền móng đạo lý, những thứ vốn văn
hóa quý hiếm của giống nòi.
Một ngày gặp gỡ. Bữa trưa uống một trận bia. Chiều đưa ông thăm chơi đó đây. Buổi tối ghé một quán vườn, rất đông anh em. Sáng hôm sau ông ghé tôi. Chúng tôi cùng uống cà phê, ăn sáng. Nhà tôi ngay đường Nguyễn Huệ nên nhà hàng Givral cũng gần. Vào quán, ông đầy vẻ ngỡ ngàng. Xem thực đơn, ông nói, “Tôi không biết gọi gì, anh gọi dùm”.
Tôi gọi cho ông ly cà phê sữa, bánh mì vuông, một đĩa thịt nguội, patê, xúc xích. Lúc này chúng tôi cũng đang túng thiếu, nhưng tiếp ông, tôi phải “bề thế” tí chút. Chẳng lẽ mấy mươi năm ông nhai củ mì ngoài Bắc, giờ này tôi mời ông mấy củ khoai lang trộn bo bo!
Tôi nhường ông ngồi ghế bên trong, nhìn ra đường, quang cảnh góc đại lộ Lê Lợi và Tự Do. “Sàigòn nó to rộng thế đấy”. Bên kia là Continental khách sạn thuộc loại cổ nhất Sàigòn, nhà Hát Tây [tòa nhà Hạ nghị viện thời Cộng Hòa], khách sạn Caravelle. Ông mãi nhìn cảnh đẹp bên ngoài, lại nhìn đĩa thịt nguội. Chừng không muốn ăn. Tôi giục ông ăn chút gì kẻo đói bụng.
Ông nói: “Anh cho tôi nhìn một hồi đã. Bao nhiêu năm tôi mới thấy cái món lạ lùng này”. Ông ăn một cách khó khăn. Chừng từ lâu không quen với dao nĩa. Tôi bèn gọi một đĩa tương tự, rồi bốc mà ăn, ý hô hào ông cùng bốc mà ăn.
Nhìn
ông, tôi lại nhớ nước mắt của ông buổi sáng hôm qua. Lúc trò chuyện, tôi nói nhỏ
với Thúy V. “Em nên ngâm bài Màu Tím Hoa
Sim của chính Hữu Loan để tặng ông”.
Trong
quán có cây đàn ghi-ta. Vũ D. đệm đàn. Tô Kiều Ngân rút cây sáo trúc “nhà nghề”, dìu giọng người ngâm thơ. Giọng
Thúy V. mượt mà, khá trữ tình. Nghe ngâm thơ của mình, từ mấy mươi năm bị chế độ
cấm phổ biến trên đất Bắc, Hữu Loan ngậm ngùi. Bất ngờ ông bật tiếng khóc.
Khuôn mặt như một phiến đá chỗ lòng suối cạn. Khó lòng thấm nước. Nhưng những hạt trong vắt cứ trôi xuống má. Ông có vẻ sờ soạng. Một bàn tay thò vào túi. Không có gì. Hai bàn tay thô tháp chỉ run run, ông kéo cái chéo áo ka-ki màu chàm, vải nhám, chừng cũng bẩn do mặc lâu ngày, đưa lên lau nước mắt…
Nhà
thơ Hữu Loan qua đời vào trung tuần tháng 3 năm 2010 tại quê nhà, hưởng thọ 94
tuổi. Phùng Quán ra đi ngày 22 tháng 1 năm 1995. Trần Dần mất ngày 17 tháng 1
năm 1997. Cùng những ngày của mùa xuân. Phan Khôi, Văn Cao, Nguyễn Mạnh Tường,
Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang…và nhiều nữa… những thành phần trụ cột của Phong
trào “Đi Tìm tự do tư tưởng, đòi hỏi nhân
quyền”, là đỉnh cao của văn hóa, cội nguồn, nay đã ra người thiên cổ.
Thiên cổ, là Bên Kia của hiện thực bên này ư? Bên kia, ai có nhớ về? Hoài niệm, bảo tôi nghĩ và viết những dòng này.
(Hình ảnh do
NNC sưu tầm trên mạng)
***



.jpg)


%20c%C3%B9ng%20con%20ch%C3%A1u%20nh%E1%BB%AFng%20n%C4%83m%202000.jpg)

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét