Kiến
trúc sư kiêm điêu khắc gia, Đại úy Nguyễn Thanh Thu (1934-2025), một nhân vật nổi
tiếng với bức tượng “Thương Tiếc” đã
ra đi ngày 6/5/2025 vào tuối 92 tại Sài Gòn.
Cáo phó của gia đình ông Nguyển Văn Thu
Dấu
tích của bức tượng “Thương Tiếc” (nằm
tại lối vào Nghĩa trang Quân đội Biên Hoà) đã tan biến trong “lò nấu đồng” sau Tháng 4/1975 khi Sài
Gòn sụp đổ. Tuy nhiên, hình ảnh ngày nào của nó sẽ còn đọng lại trong ký ức của
những người Sài Gòn xưa đã có dịp chiêm ngưỡng trên đường vào thành phố!
Rất
nhiều câu chuyện đã trờ thành “huyền thoại”
về bức tượng “anh lính cô đơn” với khẩu
súng nằm trên đùi nhìn về một nơi xa xăm nào đó. Người ta kể rằng vào những buổi
chiều mờ sương, anh lính rời bệ đá, đi lững thững xuống con suối gần đó để uống
nước. Có người còn nói, anh có lúc đã đứng dậy cầm bidon đi “xin nước” người qua lại!
Tượng “người lính cô đơn” nơi cổng vào Nghĩa trang
Có
một câu chuyện hoàn toàn không mang tính “huyền
thoại” mà ta tạm gọi là “Hai ly… một
người” được kể lại khi điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu được lệnh của Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu tạc một bức tượng tại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa, một công
trình mang tầm vóc quốc gia nói lên lòng tri ân của mọi người đối với những chiến
sĩ đã bỏ mình ngoài chiến trường.
Trong
thời gian chuẩn bị, anh Thu đã sang Philippines để nghiên cứu về cách quy hoạch
nghĩa trang với một đài kỷ niệm dành cho hơn 17.000 quân nhân Hoa Kỳ đã bỏ mình
tại đây và các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương trong trận thế chiến thứ hai.
Nghĩa
trang có tên gọi là American Cemetery, nằm trên một khu đất rộng 615,000 mét
vuông, trồng cỏ xanh rì vây quanh là những hàng cây rợp bóng mát. Điểm xuyết
cho nghĩa trang là một vài tượng đài kỷ niệm ghi những dòng chữ tưởng nhớ công
ơn những vị anh hùng “vị quốc vong thân”.
(Năm
2003, tôi đã có dịp đến đây trong một chuyến công tác tại Phi Luật Tân và viếng
nghĩa trang này tại thủ đô Manilla trong một khung cảnh thật tĩnh mịch nhưng
không kém phần uy nghi).
American Cemetery, tại Philippines, chụp năm 2003
Ngày
cuối cùng của một tuần tìm ý tưởng trên đường từ Nghĩa trang Hạnh Thông Tây, Gò
Vấp, anh Thu ghé vào một quán nước gọi ly đá chanh. Và đây chính là giờ phút “định mệnh” khi anh nhìn thấy một người
lính thuộc binh chủng Nhảy dù, một mình ngồi trước những chai bia nhưng có tới
hai cái ly…
Anh
lính ngồi nói chuyện với cái ly thứ hai trước sự ngạc nhiên của cả chủ quán lẫn
khách uống nước. Hình như anh lính là người vừa thăm bạn được chôn cất tại
Nghĩa trang Hạnh Thông Tây. Một ly anh cúng bạn và một ly anh uống. Anh ngồi vừa
uống vừa nói chuyện với chiếc ly!
Cảm
động trước hình ảnh một người lính đau khổ khi phải mất bạn, anh Thu cầm ly nước
chanh bước qua bàn làm quen. Anh lính ngước lên nhìn anh Thu với vẻ khó chịu vì
sự riêng tư của mình bị người lạ làm phiền và tiếp tục trở về với ly bia… “cúng bạn”.
Anh
Thu cũng lúng túng vì thái độ “bất hợp
tác” của anh lính nhảy dù. Mấy cô bán hàng lại cười khúc khích, có lẽ các
cô nghĩ nãy giờ có một “người điên”
ngồi uống bia nói chuyện với cái ly và bây giờ lại thêm “người điên nữa” lân la đến làm quen.
Người
lính tiếp tục gục đầu ngồi độc thoại, phớt lờ những lời xã giao làm quen của
anh Thu. Hình như anh lính tưởng bị quân cảnh hỏi giấy nên lẳng lặng móc bóp
trình giấy tờ cho anh Thu mà không hề ngước mắt nhìn. Anh tiếp tục uống và độc
thoại!
Anh
Thu cầm bóp trở về bàn mình và ghi lại tên anh lính: Võ Văn Hai, cấp bậc Hạ sĩ,
binh chủng Nhảy dù, cả tên tiểu đoàn lẫn KBC. Khi anh Thu trả lại giấy tờ, Hạ
sĩ Võ Văn Hai nhét vào túi với vẻ bất cần, cũng không thèm ngước mặt nhìn lên.
Kiến trúc sư Nguyễn Thanh Thu (1934-2025)
Lịch
gặp Tổng thống vào lúc 9 giờ sáng nhưng vì ông còn đang tiếp khách nên anh Thu
trong lúc đi lại trên hành lang dinh Gia Long và bỗng nảy ra câu hỏi “Tại sao lại không vẽ Võ Văn Hai?”. Nghĩ
là làm ngay. Anh tưởng tượng một bố cục dựa trên hình ảnh Hạ sĩ Hai ngồi nhớ bạn
tại quán nước.
Anh
trở ngay vào phòng Đại tá Cầm (tùy viên của Tướng Thiệu) chụp một cây bút
nguyên tử, lấy trong giỏ rác một bao thuốc lá và rút mảnh giấy bạc bọc bao thuốc
trở ra hành lang ngồi vẽ lại hình ảnh Hạ sĩ Hai.
Một
lần nữa, “định mệnh” lại ra tay:
trong các bản vẽ mang theo, anh Thu thấy bản cuối cùng, một “tốc họa” trên bao thuốc lá tại dinh Gia
Long, là bản anh ưng ý nhất. Đến khi vào gặp Tổng thống, anh trải các bản vẽ
lên sàn nhà trước bàn làm việc, bản vẽ cuối cùng trên bao thuốc anh vẫn còn cầm
trên tay.
Tổng
thống Thiệu sau khi đi tới, đi lui ngắm các bản vẽ, ông nói: “Anh là “cha đẻ” của dự án này nên theo ý
anh, bức nào làm anh hài lòng nhất?”. Phải nói, anh Thu là người thật thà,
chất phác, anh thẳng thắn trình bày:
“Thưa Tổng thống,
nếu Tổng thống cho tôi chọn lại thì bản vẽ mới đây tôi vừa nghĩ ra và vẽ vội
trên bao thuốc lá lại là bản vẽ tôi ưng ý nhất… nhưng tôi sợ mình quá vô lễ để
đưa ra tại đây”.
Tổng
thống Thiệu vui vẻ và đồng ý xem “tốc họa”
trên bao thuốc lá. Ông cầm bản phác thảo Hạ sĩ Võ Văn Hai về ngồi trên ghế ngắm
nghía, một lúc sau ông nói:
“Anh Thu à,
người nghệ sĩ hay lãng mạn lắm mà chiến sĩ của mình thực tế hơn, họ cần một cái
tên cho đề tài, anh cho tôi biết đề tài của bức hình là gì đây?”.
Anh
Thu lần lượt đề nghị các tên: (1) Khóc bạn, (2) Tình đồng đội, (3) Nhớ nhung,
(4) Thương tiếc và (5) Tiếc thương. Cuối cùng, Tổng thống chọn tên “Thương Tiếc” cho bức phác họa Hạ sĩ Võ
Văn Hai ngồi nhớ bạn.
Bất
ngờ, Tổng thống yêu cầu anh vẽ một bản thứ hai lớn hơn, vẽ tại chỗ, ngay ở dinh
Gia Long. Thế là với dụng cụ giấy vẽ, giá vẽ và các loại màu được cung cấp ngay
theo yêu cầu, anh Thu bắt đầu… “ra tay”
trước mặt Tổng thống Thiệu và một số sĩ quan thân cận của ông.
Anh Thu bên bản sao bức tượng “Thương Tiếc”
Sau
khi Tổng thống Thiệu ký tên vào bức “tốc
họa”, anh Thu chỉ có 3 tháng để hoàn tất công trình tượng đài trước ngày
1/11/1967, ngày Quốc khánh của VNCH. Vấn đề trước mắt là đi tìm “người mẫu” Võ Văn Hai trong quán nước
ngày trước tại Gò Vấp. Anh đã tìm đến đơn vị của Hạ sĩ Hai và gặp vị Thiếu tá
phụ trách đơn vị.
Thoạt
đầu khi nghe anh Thu trình bày vấn đề, vị Thiếu tá có vẻ băn khoăn, suy tính…
nhưng khi thấy tận mắt bức họa có chữ ký của Tổng thống Thiệu, ông lại hãnh diện
khi có người lính thuộc đơn vị nhảy dù của mình được chọn làm biểu tượng cho
người lính VNCH tại nghĩa trang…
Vị
Thiếu tá còn ra lệnh cho tập họp đại đội với súng ống đầy đủ để anh Thu chọn “người mẫu”, vì theo ông, trong đơn vị
có nhiều người cao to tới 1,7 hoặc 1,8 mét, còn Hạ sĩ Hai chỉ cao chừng 1,6m.
Chỉ
có duy nhất hình ảnh Võ Văn Hai ngồi tiếc thương bạn trong quán nước đã ám ảnh anh
Thu để sáng tạo ra bức tượng “Thương Tiếc”
ngồi trước cửa Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa.
Điêu
khắc gia Nguyễn Thanh Thu có thể hài lòng với công trình nghệ thuật kéo dài 3
tháng của mình. Và chúng ta được chứng kiến pho tượng “Thương Tiếc” ngồi trước cổng vào Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa từ
năm 1967 cho đến sau ngày 30/4/1975.
Bức tượng “Thương Tiếc” nơi cổng vào Nghĩa trang Quân đội
Sài
Gòn xưa có xa lộ Biên Hòa là con đường huyết mạch nối liền Sài Gòn với Biên
Hoà. Đây là xa lộ đầu tiên tại miền Nam do Hoa Kỳ xây dựng năm 1959 và khánh
thành năm 1961. Hãng thầu phụ trách xây dựng xa lộ là RMK-BRJ của Mỹ, họ áp dụng
công nghệ hiện đại của thời đó là đổ bê-tông toàn bộ con đường.
Xa
lộ Biên Hòa dài 31km, rộng 21m, bắt đầu từ cầu Phan Thanh Giản (nay là cầu Điện
Biên Phủ) và kết thúc tại ngã tư Tam Hiệp, Biên Hoà. Khi người Mỹ xây dựng, họ
cũng tính đến trường hợp khẩn cấp, xa lộ có thể sử dụng làm phi đạo dã chiến
cho các loại phi cơ quân sự.
Tuy
nhiên, chủ đề của bài viết này không nói về xa lộ Biên Hòa mà là Nghĩa trang
Quân đội Biên Hòa nằm phía trái dọc theo xa lộ nếu đi từ Sài Gòn. Ngày nay, nếu
có dịp viếng nghĩa trang này, người Sài Gòn không khỏi chạnh lòng trước cảnh
điêu tàn, đổ nát của những nấm mồ hoang phế tại đây.
Bức tượng “Thương Tiếc” sau ngày 30.4.1975
Được
thành lập từ năm 1965 với quy hoạch 30.000 mộ phần, Nghĩa trang Quân đội tính đến
năm 1975, đã là nơi an nghỉ của khoảng 16.000 tử sĩ. Trong số đó có hơn 10.000
quân nhân tử trận trong hai chiến trường đẫm máu nhất: Tết Mậu Thân năm 1968 và
Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972.
Dù
sao đi nữa, xét về khía cạnh nhân bản, những người sống vẫn còn được an ủi là
nghĩa trang chỉ mới đạt một nửa công suất thiết kế. Nếu 30.000 mộ được lấp kín,
niềm đau thương sẽ tăng gấp đôi khi cuộc chiến vẫn chưa chấm dứt.
Ông
cha ta đã có câu rất chí tình: “nghĩa tử
là nghĩa tận”. Dù tử sĩ trước khi nằm xuống có khoác áo quân đội miền Nam
hay miền Bắc thì họ vẫn là người Việt. Năm 1964, nghĩa trang Quân đội ở Gò Vấp
trở nên chật hẹp, không gánh vác được hậu quả của chiến tranh khi những người
lính tử trận được đưa về ngày một nhiều.
Từ
những lý do đó, người ta nghĩ đến một nghĩa trang rộng lớn hơn. Ðơn vị Chung sự,
chuyên lo hậu sự cho những chiến sĩ đã nằm xuống, cũng có nhu cầu về cơ sở để
hoạt động. Kiến nghị được trình lên cấp trên, thông qua hệ thống Cục quân nhu,
Tổng tham mưu, Tổng cục Tiếp vận.
Các
sĩ quan Quân nhu, Công binh, Ðịa ốc thuộc Tổng tham mưu đã phải bay trực thăng
trên không phận Thủ Ðức, Bình Dương, Biên Hòa, nghiên cứu địa thế thật đẹp dành
làm nơi an nghỉ cho các chiến hữu.
Nhìn
từ trên cao, Nghĩa trang Quân đội được xây dựng theo mô hình của một con ong. Đầu
ong hướng về phía xa lộ Biên Hòa với mũi kim là con đường đâm ra xa lộ. Từ Cổng
Tam Quan có hai con đường dẫn lên Nghĩa Dũng Ðài cao 43m.
Ðầu
ong là đền thờ chiến sĩ, cũng có lúc gọi là Ðền Tử Sĩ hay Ðền Liệt Sĩ. Phía dưới
chân đền là Cổng Tam Quan nối thẳng một đường dài ra xa lộ. Con đường này làm
thành cây kim nhọn của con ong và đầu kim là bức tượng “Thương Tiếc” ngay bên xa lộ.
Tử
sĩ chôn từ trung tâm Nghĩa Dũng Ðài lần lượt tỏa ra các khu bên ngoài. Ðã có
trên 10 tướng lãnh nằm tại nghĩa trang Biên Hòa trong đó người có cấp bậc cao
nhất được chôn tại Nghĩa trang là cố Ðại Tướng Ðỗ Cao Trí.
Toàn cảnh Nghĩa trang Quân đội
Tháng
3/1975, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm lên thăm nghĩa trang và làm lễ đặt vòng hoa
tưởng niệm. Không ai có thể nghĩ đây là lần viếng sau cùng của một viên chức
cao cấp sau biến cố tháng 4/75.
Nghĩa
trang có các toán quân danh dự canh gác theo lễ nghi quân cách tại Vành Khăn
Tang của Nghĩa Dũng Ðài. Quân nhân từ các quân binh chủng mặc sắc phục được điều
động về theo đơn xin khi họ có đủ điều kiện. Với vóc dáng trẻ trung, khỏe mạnh,
cao lớn, đoàn quân này được huấn luyện để canh gác và biểu diễn các thao tác
nghi lễ như các đoàn quân danh dự tại nghĩa trang Arlington, Hoa Kỳ.
Thế
giới đã có không ít những bài học về tinh thần hòa giải dân tộc qua những giai
đoạn lịch sử khác nhau. Hoa Kỳ đã trải qua thời nội chiến phân tranh khốc liệt
giữa hai miền Nam-Bắc, kéo dài từ năm 1861 đến năm 1865.
Khi
cuộc nội chiến kết thúc, tử sĩ của cả hai miền đều được an nghỉ bên nhau tại
Nghĩa trang Quốc gia Arlington ở thủ đô Washington DC. Mỗi năm có gần 4 triệu
người Mỹ đến viếng Arlington với lòng thành kính biết ơn những người đã nằm xuống
cho đất nước đứng lên. Họ hoàn toàn không bị phân biệt liệt sĩ là người của
quân đội miền Nam hay miền Bắc.
Lớp
hậu duệ của những người Đức đã bỏ mình trong những trận mưa pháo của hạm đội
Hoa Kỳ và Anh Quốc cùng con cháu những chiến binh Anh-Pháp-Mỹ đã gục ngã trước
họng súng đại liên của Đức quốc xã trong ngày đổ bộ lên bãi biển Normandy
(6/6/1944) hồi Đệ nhị thế chiến… ngày nay đều cùng quay trở về thăm mộ bia của
cha ông đến từ cả hai chiến tuyến.
Tại
Trung Hoa, Nghĩa trang Hoàng Hoa Cương của quân đội Tưởng Giới Thạch – trong đó
có cả mộ phần của liệt sĩ chống Pháp Phạm Hồng Thái đến từ Việt Nam – vẫn được
chính phủ Hoa Lục trùng tu và chăm sóc cẩn thận. Ngày nay nghĩa trang này đã trở
thành di tích lịch sử, thu hút một lượng khách du lịch đông đảo. Họ có thể là
những người đến tham quan thắng cảnh và cũng có thể là hậu duệ của những tử sĩ
đã nằm xuống tại đây.
Tại
Việt Nam, biết bao gia đình có con em phục vụ dưới hai mầu áo khác nhau nhưng mẹ
Việt Nam vẫn không hề phân biệt trong những dịp cúng giỗ. Tình cảm thiêng liêng
đó đã có từ trước 1975 và tiếp tục duy trì sau ngày Sài Gòn mất tên. Sao chúng
ta không mở lòng như người mẹ bình thường đã và đang làm?
Tại
sao chúng ta không làm được như những dân tộc khác đã làm? Đối với những người
còn sống, chúng ta vẫn có thể phân biệt chính kiến nhưng đối với người đã chết,
liệu sự phân biệt đối xử đó có hợp với đạo lý muôn đời của người Việt hay
không?
Điêu
khắc gia Nguyễn Thanh Thu đã không chỉ gửi vào bức tượng “Tiếc Thương” kỹ thuật điêu khắc tinh vi, mà còn dồn vào đó cả linh
hồn của cả một thế hệ. Đó là một linh hồn không thể nào quên, một linh hồn
không chịu cúi đầu trước bi thương của thời đại.
Điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu bên những tác phẩm
***