Thứ Sáu, 31 tháng 10, 2025

Đọc lại “The Prophet” của Khalil Gibran

Khalil Gibran (1883 - 1931) là một nhà thơ, nhà văn, một nghệ sĩ, một hoạ sĩ người Liban. Khi còn trẻ ông di cư cùng gia đình đến Hoa Kỳ, tại đó ông nghiên cứu nghệ thuật và bắt đầu sự nghiệp văn chương của mình, viết bằng cả tiếng Anh và tiếng Ả Rập.

Trong thế giới Ả Rập, Gibran được coi là một kẻ nổi loạn trong văn học và chính trị. Phong cách lãng mạn của ông là tâm điểm của sự phục hưng trong văn học tiếng Ả Rập hiện đại, đặc biệt là thơ văn xuôi, tách ra từ trường phái cổ điển. Tại Lebanon, ông được coi như một thiên tài văn học.

Không những là một nhà thơ, Kahlil Gibran còn là một triết gia, một vị tiên tri, một nghệ sĩ. Thế giới Tây Phương xưng tụng ông là “Dante của thế kỷ XX”. Thế giới Đông Phương tôn vinh ông là “Bậc thầy khả ái”.

Tác phẩm của ông chứa đựng thông điệp cao cả, nhất quán và vượt thời gian về một thế giới đại đồng, tôn giáo hòa đồng, loài người huynh đệ và một tình yêu hằng cửu nối kết con người với nhau trong tình yêu Thượng Đế, giữa một trần gian hợp nhất với không gian.

 

Chân dung tự hoạ của Kahlil Gibran trong “The Prophet”

Ông chủ yếu được biết đến trong thế giới nói tiếng Anh nhờ cuốn sách “The Prophet” (Kẻ tiên tri hay Ngôn sứ), xuất bản năm 1923. Một tác phẩm đầu tiên của tiểu thuyết truyền cảm hứng bao gồm một loạt các bài tiểu luận triết học được viết dưới hình thức “thơ bằng văn xuôi” (prose poem) tiếng Anh.

“The Prophet” được phổ biến trong những năm 1930 và một lần nữa trong những năm 1960 với nền văn học “chống văn minh xã hội”. Có thể nói, Gibran là nhà thơ có sách bán chạy nhất sau Shakespeare và Lão Tử.

Cuốn sách cho đến nay đã tái bản hàng trăm lần cùng dịch ra trên bốn chục thứ tiếng. Riêng tiếng Việt, tác phẩm này cũng đã được ít nhất năm người dịch, trong đó có Phạm Bích Thủy với tiêu đề “Mật Khải” năm 1969, Trùng Dương, Giải Nghiêm, Châu Diên.... với nhan đề thường xoay quanh chữ “Tiên tri”. Riêng bản dịch của Nguyễn Ước đã dùng chữ “Ngôn sứ”.

Thông điệp cho con người thường được gọi là sứ điệp hay lời tiên tri (prophecy), có lẽ vì thế nhiều người thường dịch chữ Prophet là Nhà tiên tri, theo ý nghĩa kẻ biết trước và nói lên con đường tất yếu trong tương lai nếu người đương thời nhất định đi theo chân lý hoặc vẫn không thể từ bỏ những đọa lạc hiện tại.

 

Bìa ấn bản đầu tiên của "The Prophet"

 

Almustafa, nhân vật chính trong tác phẩm, là một con người bình thường tiềm ẩn trong mỗi chúng ta, được thăng hoa nhờ các trải nghiệm của một quá trình chiêm nghiệm trong cô đơn, rồi phát biểu với chúng sinh bằng tất cả ý thức trách nhiệm, từ tốn và chân tình.

Nhà tiên tri Almustafa đã sống ở thành phố Orphalese 12 năm và sắp qua đời, được miêu tả một cách thơ mộng như “con tàu sẽ đưa ông trở về nhà”. Người dân địa phương, thấy ông sắp rời xa họ, đã đến gặp ông tại đền thờ và đưa ra những vấn đề mà họ thắc mắc.

Nhân vật thứ hai là Almitra là người đầu tiên phát hiện ra Almustafa. Người dân thị trấn vô cùng đau buồn, và Almitra yêu cầu ông chia sẻ với mọi người những gì ông đã học được khi sống giữa họ. Sau đó, bà tạo điều kiện cho Almustafa giải quyết một số câu hỏi liên quan đến cuộc sống và thân phận con người.

 

Trang đầu trong “The Prophet”

 

* Tình yêu: đó là những thứ gom các bạn vào lòng như một bó lúa, sàng sảy cho các bạn ra khỏi vỏ trấu, xay xát cho các bạn sạch bóng, nhào nặn cho các bạn mềm dẻo!

* Hôn nhân: Hãy cùng nhau vui ca nhưng nên để mỗi kẻ một mình như dây đàn đứng riêng dù rung chung điệu nhạc, hãy cho nhau trái tim nhưng đừng giao nhau cất giữ. Các ngươi sinh ra gần nhau thì sẽ gần nhau mãi mãi. Các ngươi sẽ gần nhau cho tới khi đôi cánh trắng của tử thần đến phá nát ngày của mình.

* Con cái: Chúng là con của cuộc đời trong nỗi khát khao của chính chúng. Chúng dù ở với các bạn nhưng không thuộc về các bạn vì bạn chỉ có thể cung cấp nơi ở cho thể xác nhưng không thể cho chúng linh hồn. Chúng đến “qua” các ngươi nhưng chẳng “từ” các ngươi.

* Cho đi: Các bạn cho rất ít khi chỉ cho những vật mình sở hữu, chỉ khi cho đi bản thân các bạn mới thật sự cho. Những vật sở hữu là những cái bạn đang canh giữ bởi sợ ngày mai có thể cần tới chúng.

* Ăn uống: Khi nhai nhuyễn một quả táo trong lòng các bạn hãy nói với nó rằng: “Mầm của ngươi sẽ sống trong thể xác ta và mùi hương của ngươi sẽ là hơi thở ta”. Khi giết một con thú để làm thức ăn, ta phải nghĩ rằng chính bản thân ta cũng sẽ là mục tiêu của sự hủy diệt.

* Công việc: Khi lao động, các bạn là cây sáo, qua lòng ống ấy, tiếng thời gian thì thầm thành âm nhạc. Có ai muốn làm cây sáo lặng câm khi mọi người vang tiếng hát đồng ca? Phàm con người thường hay phàn nàn về công việc mình làm và cho đó là nỗi bất hạnh của từng cá nhân.

* Niềm vui và nỗi buồn: Càng bị phiền muộn khắc sâu, các bạn càng có thêm khả năng chứa đựng hân hoan. Khi vui, các bạn hãy nhìn sâu vào lòng mình, sẽ thấy cái khiến mình phiền muộn cũng chính là cái đang làm mình hân hoan. Niềm vui là nỗi buồn đã lộ chân tướng vì trong cùng một giếng nước nơi chan hòa tiếng cười nhưng đó lại chính là giếng nước đầy lệ của con người.

* Nhà cửa: Hãy xây bằng mộng tưởng một căn nhà nghỉ mát ngoài hoang mạc trước khi xây ngôi nhà của mình trong đô thị. Nhà của các bạn không phải mỏ neo mà là cột buồm! Nhà cửa là “những nấm mồ do người chết xây cho người sống” và dù huy hoàng tráng lệ, “nhà cửa sẽ không giữ được bí mật trong việc che đậy những khát vọng trần tục”.

* Quần áo: Quần áo che phần lớn vẻ đẹp của các bạn tuy không giấu nổi vẻ xấu xí. Nhưng dù tìm nơi quần áo sư tự do riêng tư, các bạn cũng có thể thấy trong chúng có xích xiềng cương toả.

* Mua bán: Chính trong việc trao đổi tặng phẩm của đất các bạn mới tìm thấy sự dư dật và được toại nguyện. Nhưng nếu sự trao đổi ấy không diễn ra trong yêu thương và công bình, chỉ khiến một số người sinh lòng tham và những kẻ khác lâm cơn đói khát

* Tội ác và hình phạt: Chính khi tinh thần các bạn đi lang thang theo gió khiến các bạn lẻ loi, phạm điều lầm lỗi với người khác. Và vì điều lỗi lầm đã phạm các bạn phải gõ cửa nhưng chẳng ai đoái hoài tại cổng của kẻ được ân phúc. Nếu có ai muốn đem xét xử một người đàn bà ngoại tình thì kẻ ấy hãy đem trái tim của người chồng lên bàn cân và đo lường tinh thần hắn.

* Luật pháp: Các bạn vui mừng khi đặt ra luật pháp, thế nhưng các bạn mừng vui hơn khi vi phạm nó, y hệt trẻ em đang chơi bên bờ biển, xây lâu đài cát rồi phá hủy với tiếng cười rộn rã. Con người vui thích khi đặt ra luật lệ nhưng chính con người cũng vui hơn khi phá luật lệ.

* Tự do: Tại khắp nơi ta thấy các bạn luôn thờ phụng tự do như những kẻ nô lệ phủ phục trước bạo chúa và ca tụng hắn dù hắn đang giết họ. Ta thấy kẻ tự do nhất trong các bạn đeo tự do của hắn như cái ách, cái còng. Con người sẽ hoàn hoàn tự do khi ngày không còn một nỗi lo âu và đêm không còn sầu thảm.

* Lý trí và đam mê: Linh hồn các bạn là bãi chiến trường, trong đó lý trí và óc phán đoán giao chiến với đam mê và lòng ham muốn. Ước gì ta có thể làm kẻ hòa giải để mình có khả năng biến sự bất hòa và tranh chấp thành một giai điệu.

* Đau đớn: Phần lớn đau đớn của các bạn do mình tự chọn lấy. Nó là liều thuốc đắng được lương y trong con người các bạn dùng để chữa lành bản ngã đang lâm bệnh. Do đó, hãy tín nhiệm lương y và im lặng uống phương thuốc ấy.

* Giáo dục: mỗi người các bạn đứng một mình trong sự hiểu biết của Thượng đế, nên người đó phải một đứng một mình trong am hiểu của hắn về Thượng đế cũng như về trần thế.

* Tình bạn: Người bạn là những cần thiết của bạn được đáp ứng. Hắn là cánh đồng các bạn gieo với tình yêu thương và gặt với lòng biết ơn. Hắn là bàn ăn vì các bạn đi tới hắn với cơn đói và các bạn tìm nơi hắn sự bình an.

* Trò chuyện: Có những người tìm tới kẻ hay nói vì sợ cô đơn. Có những người trò chuyện không có kiến thức hoặc suy nghĩ trước nhưng vén lộ một chân lý chính họ cũng chẳng hiểu biết.

* Thời gian: Hôm qua chỉ là ký ức của hôm nay và ngày mai là giấc mộng của hôm nay. Các bạn muốn đo lường thời gian, cái mênh mông vô hạn và chẳng thể đo lường. Cái vô tận trong các bạn nhận biết sự vô tận của cuộc đời.

* Thiện và ác: Về thiện trong các bạn, tôi có thể nói, còn về ác thì không thể. Vì ác là gì, hay chỉ là thiện bị hành hạ bởi cơn đói và cơn khát của chính nó? Bạn thiện khi phấn đấu để cho đi bản thân, nhưng các bạn không ác khi mưu lợi cho mình.

* Cầu nguyện: Các bạn cầu nguyện khi bí bách khổ sở và trong hoàn cảnh túng thiếu của mình; ước gì các bạn cũng cầu nguyện lúc chan chứa hân hoan và trong những ngày dư dật. Cầu nguyện là gì nếu chẳng phải là dàn trải bản thân vào thinh không sinh động?

* Lạc thú: Lạc thú là bài ca tự do nhưng nó chẳng là tự do. Và trong các bạn, có những người không trẻ để tìm kiếm cũng chẳng già để nhớ lại. Và thân xác là cây đàn của linh hồn các bạn. Hãy ra cánh đồng, các bạn sẽ hiểu lạc thú của ong là hút mật hoa nhưng lạc thú của hoa là trao mật cho ong.

* Cái đẹp: Cái đẹp chẳng là nhu cầu mà là ngất ngây, nó chẳng là miệng đang khát cũng chẳng là bàn tay trống không chìa tới trước, thay vì thế, là tâm hồn rực cháy và linh hồn say mê. Cái đẹp là vĩnh cửu soi mình trong gương nhưng các bạn là vĩnh cửu và các bạn là chiếc gương.

* Tôn giáo: Ai có thể tách rời đức tin với hành động, hoặc niềm tin với công việc? Ai có thể trải giờ giấc ra trước mặt và nói: 'Giờ này dành cho Thượng đế và giờ này dành cho chính tôi; Giờ này dành cho linh hồn tôi và giờ kia dành cho thân xác tôi?'. Cuộc sống hằng ngày của các bạn là đền thờ và là tôn giáo của các bạn.

* Cái chết: Các bạn muốn biết về bí mật của Cái chết nhưng làm sao các bạn thấy được nó nếu không tìm kiếm nó trong lòng sự sống? Vì sống và chết là một, như sông với biển là một. Chết là gì nếu không là đứng trần truồng trong gió và tan chảy trong nắng?

* Giã từ: Ngắn ngủi thay những ngày ta ở giữa các bạn, lại càng ngắn ngủi hơn nữa những lời tôi đã nói. Nhưng nếu tiếng nói của tôi phôi pha trong đôi tai các bạn và tình yêu của tôi biến mất trong ký ức của các bạn, lúc đó tôi sẽ quay lại lần nữa. Vâng, tôi sẽ quay lại cùng với con nước triều lên.

 

Một ấn bản khác của “The Prophet”

 

Có tất cả 26 vấn đề được nêu lên trong tác phẩm “The Prophet”, chỉ gói gọn trong 96 trang sách, kèm theo đó là 11 bức tranh minh hoạ do chính Kahlil Gibran sáng tác nhưng không nằm trong các trang đã đánh số trong nguyên bản tiếng Anh.

Tôi có hân hạnh được sở hữu bản tiếng Anh “The Prophet” trên kệ sách và vẫn thỉnh thoảng đọc lại để nghiền ngẫm những vấn đề của cuộc sống mà tác giả Kahlil Gibran đặt ra.

Đây là một cuốn sách lý tưởng cho bất kỳ ai tự nhận mình là người sâu sắc và muốn suy ngẫm về thế giới. Ở điểm tốt nhất, nó có thể thay đổi cuộc đời vì cuốn sách này là một trong số ít những cuốn sách người đọc thực sự ước mình đã được đọc khi còn trẻ.

Với tuổi tác ngày càng đến gần với cái chết như Al Mustafa, tôi càng thấy tác giả quả đã có những nhận xét thâm thuý mà không phải mọi người ai cũng nhìn thấy hết khi mình còn trẻ.

 

Bức tranh minh hoạ của Kahlil Gibran trong “The Prophet”

 

***
--> Read more..

Thứ Hai, 27 tháng 10, 2025

Căng như dây đàn…

Dây đàn chùng thì làm sao chơi nhạc được… nên người ta thường ví “căng như dây đàn” để ám chỉ nguyên tắc “bất di bất dịch” cần phải lên dây đàn trước khi chơi nhạc.

Câu nói này còn được áp dụng trong nhiều lãnh vực khác của cuộc sống khi phải điều chỉnh để thích nghi với hoàn cảnh khó khân ngoài ý muốn. Điển hình khi từ Phú Nhuận về Tân Phú tôi phải làm quen với tiếng động cơ máy bay lên xuống phi trường Tân Sơn Nhất…

 

Phi trường Tân Sơn Nhất

 

Sau hơn một tuần cố làm quen với những tiếng động cơ phản lực suốt ngày cũng như đêm, tôi vẫn chưa thực sự quen được với tiếng động “kinh khủng” đó. Đầu óc lúc nào cũng “căng như dây đàn” vì phi cơ lên xuống theo tần suất khoảng từ 10 đến 15 phút!

Nhất là vào những đêm yên tĩnh thường bị giật mình đánh thức bởi những tiếng gầm thét của động cơ bay ngang nhà. Thôi thì đủ loại máy bay dân sự, từ tiếng động cơ của “người khổng lồ” như Jumbo Jet 747 đến những chiếc Airbus “hiền lành” chở khách trong một chuyến du hành đến nơi xa xôi.

 

Jumbo Jet 747

 

Theo kinh nghiệm của những người hàng xóm, khu chúng tôi nghe âm thanh từ những chuyến Bay Đi “ào ào như thác đổ”, những chuyến Bay Đến thường tương đối bớt ồn ào hơn vì bay ở độ cao có phần xa hơn.

Có lúc tôi bỗng tự hỏi, có bao giờ những người trên “cỗ máy di động” đó nghĩ tới đám sinh linh chúng tôi ờ dưới đất đang phải nghe tiếng động khủng khiếp thoát ra từ phương tiện mà họ đang sử dụng?

Tôi lại nghĩ đến những người đang ngồi trong máy bay. Họ nghĩ gì khi tính mạng của mình đặt gọn trong cái gọi là “tiến bộ của khoa học”, ranh giới giữa Sống và Chết tuỳ thuộc vào may rủi.

Mới nghĩ vui khi mình đáp chuyến bay để được gặp lại người thân sau thời gian xa cách nhưng cũng thật sự “bi thảm” khi tai nạn xảy ra. Chuyến bay số hiệu AI-171 của Air India rơi chỉ vài chục giây sau khi cất cánh từ sân bay Ahmedabad chiều 12/6/2025 là một thí dụ điển hình.

Người ta xác định 279 thi thể, gồm 241 người trên máy bay và 38 nạn nhân trên mặt đất. Đây là thảm họa hàng không tồi tệ nhất thế giới trong một thập kỷ qua, cũng là tai nạn máy bay chết chóc nhất ở Ấn Độ kể từ năm 1996.

Máy bay gặp nạn là mẫu Boeing 787-8, tai nạn đánh dấu lần đầu tiên dòng phi cơ này gây ra tai nạn chết người lớn nhất xảy ra kể từ khi được khai thác thương mại năm 2011.

 

Hiện trường vụ rơi máy bay Boeing 787 Dreamliner của Air India

 

Bây giờ chúng ta nói tới phi công và phi hành đoàn, những người quyết định vận mạng của hành khách kể từ khi họ bước chân lên máy bay cho đến lúc bước xuống khi phi cơ dừng lại tại phi trường.

Phi công là yếu tố quyết định chính trong suốt quá trình đó. Dĩ nhiên là việc đào tạo và huấn luyện đóng vai trò chủ chốt của sự nghiệp nắm sinh mạng hành khách. Nhưng đó mới chỉ là một phần của cả một đời người, chưa nói gì đến số phận và sự nghiệp của từng cá nhân trong việc “đi mây, về gió”. Nhiều phi công đã từng ngồi trong “cockpit” các loại máy bay tiêm kích trong thời chiến cũng đã chuyển sang hàng không dân dụng trong thời bình.

Nổi tiếng nhất là ông Nguyễn Xuân Vinh, đã từng là sĩ quan Không quân của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Đại tá. Ông cũng là Giáo sư, Tiến sĩ, Viện sĩ chuyên ngành Kỹ thuật Không gian người Mỹ gốc Việt trên thế giới.

Trong văn nghiệp, với bút hiệu Toàn Phong, ông đã để lại cho đời tác phẩm “Đời phi công”, xuất bản năm 1959, và nhận được Giải thưởng Văn chương Toàn quốc năm 1961.

 

Đại tá Nguyễn Xuân Vinh - Văn Võ Song Toàn

 

“Đời phi công” là những bức thư tác giả gửi về cho một người con gái tên Phượng trong chuỗi ngày học bay tại nước ngoài. Trong bức thư đầu tiên có đoạn:

“Phượng,

“Viết thư này anh đã ở xa em muôn vạn trùng dương. Anh mỉm cười khi đặt bút vì nghĩ rằng em vẫn thường chê cái tính thích giang hồ vặt của anh. Lần này thì anh đi hẳn, đi thật xa cho đến khi nào công thành anh mới trở về…”

Và đây là một vài đoạn của cuộc đời phi công của Toàn Phong:

“Chiếc xe ca chở anh tới Tân Sơn Nhất chạy quanh co qua những phố vắng. Thỉnh thoảng một chiếc xích lô máy kêu ầm ĩ chạy ngược lại, hai ngọn đèn pha yếu ớt ánh vàng như những cặp mắt ngái ngủ, sau một đêm thức nhiều mệt nhọc…

“Máy bay lần lượt hạ cánh ở Calcutta, Karachi, Beirut, La mã và cuối cùng ở Ba lê.

“Anh tới kinh thành ánh sáng một buổi chiều mùa thu lá vàng rơi đầy đường sau khi đã lênh đênh trên mây trời hơn 30 tiếng đồng hồ. Chắc em không thể tưởng tượng được rằng rồi đây cuộc đời của anh sẽ lênh đênh như thế mãi. Lúc anh bước chân xuống Karachi để máy bay lấy xăng, người phi công thuyền trưởng lại gần anh xin lửa châm thuốc hút có hỏi:

“Tôi xem phiếu lý lịch hành khách thấy đề tên ông sang Pháp học lái máy bay?

“Anh gật đầu, người ấy nói tiếp:

“Rồi ông sẽ thấy bay là một cái nghiệp. Mắc vào rồi nó sẽ vướng lấy mãi…

“Như em đã biết, anh tới Ba lê vào một chiều thu lá rụng đầy đường. Những cây trơ trọi như những xác vô hồn. Anh ở trong khu nhà sĩ quan gần trường bay Bourget. Cảnh vật chiều nay ảm đạm lạnh lùng. Buổi sáng ở đây vừa có một chiếc phi cơ Junker 52 bị rơi, mười chín người bị cháy ra tro. Trong buồng ăn không ai nói một lời. Vài người ngửng đầu nhìn lên khi anh bước vào rồi lại cúi xuống…”

“Em Phượng, nếu giờ đây em có đang giận anh thì anh cũng đành chịu vì anh không còn quyền lực gì để bắt em phải nghe theo lời anh. Nhưng chắc em cũng còn để cho anh viết cho em để kể cho em nghe đôi câu chuyện vui buồn của những phi công như các anh mà nơi trú ngụ ở khắp bốn phương trời, tương lai cũng mơ hồ như sương đêm và lênh đênh trên đám mây trắng là hình ảnh cuộc đời.

(hết trích)

Và đây là thư tác giả học bay đêm vào giai đoạn cuối:

“Sau tám tháng trời vất vả anh đã bắt đầu sang giai đoạn bay đêm. Anh đã bắt đầu thấy có niềm tin vững chãi của những kẻ biết mình sẽ thành công. Những ngày đẹp trời bay lượn, cần lái thấy nhẹ nhàng trong tay, tiếng động cơ thấy hoà đều trong hơi thở. Anh đã sung sướng hát bài ca vũ trụ lòng nhẹ như mây hồng trôi. Em có cùng ở đây lúc này chắc cũng lây niềm hân hoan, nhoẻn miệng cười mà tan hết giận hờn.

"Anh đã bắt đầu bay đêm nghĩa là đang trải qua chặng đường chót ở đây. May mắn thì một tháng nữa anh có thể rời khỏi xứ này, rời những cái oi ả để về gần quê hương hơn chút nữa. Anh sẽ thấy đỡ nhớ quê hương hơn, tuy rằng xa cách trọn nửa trái cầu thì gần hơn vài ba ngàn cây số cũng chỉ thế mà thôi.

(hết trích)

 

Tác phẩm “Đời Phi Công”

 

Trở lại với đề tài “Căng như dây đàn”, chúng ta thấy từ những tiếng động cơ phản lực gầm thét trên bầu trời Tân Phú sang đến tai nạn khủng khiếp khiến hàng trăm hành khách phải thiệt mạng rồi đến giai đoạn đào tạo phi công cho đất nước… là cả một truyện dài như vô tận của ngành hàng không.

Chúng ta rút ra một bài học ở đời: dù gì đi nữa, hãy thích nghi với mọi tình huống bất trắc nếu muốn được tiếp tục sống trong cuộc đời này!

 

Hàng không Dân dụng Quốc tế (ICAO)

 

*** 

--> Read more..

Thứ Năm, 23 tháng 10, 2025

Ngày thứ 4: Gặp gỡ người thân

Cái số của tôi vẫn còn nhiều may mắn! Mới hôm trước được gặp anh Luc Van, một người quen biết trên Facebook tại Café Viva, Tân Phú, thì mới đây một nhân vật nữa thuộc loại “người thân” cũng đã xuất hiện.

Trần Gia Quốc Việt là con trai của bà chị bà xã tôi ngoài Huế. Năm 1984, Việt vào Sài Gòn để tiếp tục học ngành điện tại Phú Thọ. Sau này Việt phục vụ ngành điện tại Sài Gòn, chỉ đôi khi mới trở về Huế thăm gia đình.

 

Việt & Hằng (con gái út của tôi) chụp tại Sài Gòn năm 1984

 

Lần đầu tiên vào Sài Gòn, xa lạ và bỡ ngỡ trước lối sống có phần náo nhiệt so với sự trầm lặng, khép kín của đất Thần Kinh cho nên Việt coi gia đình tôi là một “chỗ dựa duy nhất” trong những ngày đầu bỡ ngỡ tại xứ được gọi là Hòn ngọc Viễn đông.

Chẳng bao lâu sau, Việt thích nghi với môi trường rộng mở của Sài Gòn hoa lệ và trở thành một kỹ sư điện trong ngành điện lực sau khi tốt nghiệp Phú Thọ. Việt còn đóng một vai trò tương đối quan trọng về chuyên môn, nhất là năng lượng mặt trời với những thử nghiệm mới lạ.

 

Hai cậu cháu tại Café Viva, Tân Phú, 2025

 

Quả thật tôi rất đỗi bất ngờ khi Việt trở thành Giàm đốc Trung tâm Tư vấn Lưới điện khi nhìn hình ảnh bữa tiệc Tri ân & Chia tay với người Giám đốc vào tháng 9 năm 2025. Đó là ngày Việt đến tuổi về hưu để trở thành “tỷ phú thời gian” theo cách nói của thời đại bây giờ.

Thời gian đi thật nhanh. Tôi vẫn không tin anh chàng thư sinh ngày nào “chân ướt chân ráo” từ Huế vào Sài Gòn với vẻ mặt ngỡ ngàng trước bao sự lạ của thành phố hoa lệ… Thế mà giờ đây đã trở thành kỹ điện và cuối cùng là “một quan chức về hưu”!

 

Tiệc tri ân & chia tay Việt, tháng 9 năm 2025

 

Thời gian là một thứ gì đó vô hình, vô hạn với vũ trụ nhưng lại là hữu hạn với đời người. Thời gian là vô giá đối với tất cả mọi người, là thứ tài sản ta có nhiều nhất, thế nhưng thực tế không phải ai cũng nhận ra tầm quan trọng của nó.

Ngoài ra, thời gian cũng rất vô tình, không vì ai mà trôi nhanh hơn cũng không vì ai mà chậm lại. Từ một thanh niên trẻ lần đầu đặt chân đến Sài Gòn thế mà giờ đây Việt đã trở thành một “cán bộ hưu trí”!

Có một triết gia đã từng nói: “Cuộc sống và thời gian là hai người thầy tốt nhất. Cuộc sống dạy chúng ta sử dụng tốt thời gian và thời gian dạy chúng ta giá trị của cuộc sống” (Life and time are the best teachers. Life teaches us to make good use of time and time teaches us the value of life).

 

Hình do Việt chụp tại Café Viva, 2025

 

Thật quá đúng với trường hợp của Việt, cả về thời gian lẫn cuộc sống. Hai khía cạnh đó luôn song hành bên nhau. Tuy nhiên, chúng lại mang nhiều ý nghĩa, đôi khi lại trở thành đối nghịch!

 

***

--> Read more..

Chủ Nhật, 19 tháng 10, 2025

Ngày thứ ba trên đất lạ… gặp “người quen”

Hôm nay đã là ngày thứ ba tôi sống ở Tân Phú. Vẫn giữ thông lệ, sáng khoảng 6g30 rời “nhà mới” ra quán Viva ngồi “cà phê một mình”.

Vừa ngồi ấm chỗ chừng hơn 10 sau thì một người khoảng ngoài 60 dừng xe trước mặt, nhìn vào mình và… mỉm cười! Thật tình khuôn mặt đó không gợi chút nào quen thuộc nhưng mình cũng cười đáp lễ.

Như thể để đánh tan sự ngỡ ngàng, anh nói câu đầu tiên… “Chào thầy, em là khoá sinh không quân tại trường Sinh ngữ Quân đội năm nào. Được kết bạn với thầy trên Facebook qua nick Luc Van… em có theo dõi và được biết thầy vừa di chuyển về Tân Phú, rất gần với nhà em…”.

À ra thế! Luc Van và một số bạn như Hai Le vẫn thường khá năng động trong số nhóm bạn của tôi trên mạng xã hội nhưng quả thật tôi chưa có dịp đứng lớp của các anh vì hồi đó tôi thuộc nhóm giảng viên phụ trách Hải quân ở chi nhánh Phan Thanh Giản và Không quân chi nhánh Nguyễn Văn Tráng.

Theo Luc Van, hồi đó anh học sinh ngữ khoảng năm 1974, còn tôi lúc đó biệt phái về ban Tu thư & Dịch thuật của Tổng cục Quân huấn cho đến ngày Sài Gòn “đổi chủ”. Anh còn nhắc lại Major Gẫm, sĩ quan kỷ luật và cũng là “hung thần” luôn có “tông-đơ” để xén những mái tóc dài của khoá sinh đến lớp!

Còn Trung uý Đại với biệt danh “Chị Đại” phụ trách khảo thí. Tuy với dáng người “ẻo lả” nhưng “Chị Đại” làm việc rất “rếch-lô” trong phòng thi ECL (English Comprehensive Level), một trong những cuộc thi khảo sát trình độ tiếng Anh của khoá sinh mỗi khi thi chuyển cấp.

Luc Van còn nhắc đến giảng viên như Thiếu uý Thành, “đẹp trai” lại có tay nghề chụp ảnh “hết sảy”… Riêng về phần mình, anh nhắc lại những ngày “trầy gia, tróc vẩy” trong giai đoạn tuyển vào không quân. Từ việc khám sức khoẻ đến việc học ngoại ngữ từ Nha Trang đến trường Sinh ngữ.

Điều đáng tiếc là khi đậu ECL cũng là lúc tài khoá du học lại bị cắt giảm nặng nề vào năm 1974 khiến nhiều sinh viên sĩ quan không thể sang Mỹ học bay. Thế rồi kịp đến ngày 30/4/1975 “đổi đời”, anh bị liệt vào thành phần “nguỵ quân” dù mới chỉ mang Alpha trên vai áo!

“sinh viên sĩ quan” nhưng người ta chỉ chú ý đến 2 chữ cuối cùng “sĩ quan” nên rốt cuộc Luc Van cũng phải “trình diện học tập” như bao quân nhân khác. Cuộc đời thật trớ trêu nên tôi an ủi Luc Van:

“Anh cứ thản nhiên chấp nhận chứ đừng oán trách. Bằng này tuổi rồi tôi mới ngộ ra một điều mà ngày xưa trong Cổ học Tinh hoa, học giả Nguyễn Văn Ngọc có kể lại chuyện ông lão mất ngựa hay còn được gọi là “Tái ông thất mã”…

“Trong cái rủi lại có cái may" vì "hoạ phúc khôn lường". Không quá bi quan khi gặp rủi ro và không quá lạc quan khi gặp may mắn. Chuyện kể ông lão có nuôi một con ngựa,  một hôm, ngựa của ông lạc vào rừng, hàng xóm đến chia buồn nhưng ông lại bảo: “Biết đâu lại có chuyện tốt đến”.

“Không lâu sau con ngựa của ông trở về và còn dẫn theo một con ngựa cao lớn, mạnh mẽ. Mọi người đến chúc mừng ông, nhưng ông lại nói: “Có lẽ nó sẽ dẫn đến tai họa cũng nên!”

“Quả nhiên, con trai ông lão vốn rất thích cưỡi ngựa nên đã cưỡi con ngựa to khỏe rồi cuối cùng bị ngã gãy xương và bị què chân. Lúc này hàng xóm lại rối rít đến thăm nom, nhưng ông lại nói rằng: “Biết đâu nhờ họa mà lại được phúc!”

“Một năm sau, trong nước có chiến tranh, thanh niên trong vùng đăng lính, nhiều người chết trận. Thế nhưng con trai ông lão vì què chân nên được miễn lính và cuối cùng may mắn thoát chết!”

 

Với Luc Van tại Café Viva

 

Chúng tôi ngồi nói chuyện miên man bên ly cà phê, Luc Van là “người quen” đầu tiên tôi được gặp sau 3 ngày lưu lạc đến Tân Phú. Chắc chắn trong tương lai chúng tôi còn gặp lại nhau vì nhà của anh tương đối gần.

Nhìn đồng hồ thấy đã quá 9g, trễ hơn thông lệ đến hơn một tiếng, nên tôi nói lời chia tay Luc Van và không quên hẹn với anh sẽ gặp lại nhau để cùng tâm sự.

 

*** 

--> Read more..

Thứ Tư, 15 tháng 10, 2025

Viết từ địa chỉ mới

Ngày 11/10/2025, tôi đã dời quận Phú Nhuận để tới Tân Phú, nơi gia đình con trai sinh sống. Cuộc chia tay, dù là giữa hai quận cùng thành phố, cũng mang dấu ấn khó quên như khi chia tay một người tình thời còn trẻ.

Mọi việc đã được chuẩn bị kỹ càng, sách vở, những kỷ vật của cả một đời người được lên kế hoạch rất kỹ. Sách được gom khỏi kệ để công ty dọn nhà đóng gói trong những thùng carton. Bàn ghế, giường tủ mang về “nhà mới” cũng đã sẵn sàng để lên đường trên chiếc xe Van bán tải.

Thật ra vì tuổi già, sức yếu tôi không thể nhúng tay vào những công việc đó nhưng tinh thần lại rất căng thẳng trước những sự việc diễn ra trước mắt. Tuy không “làm động đến móng tay” nhưng vẫn thấy mình quá mệt mỏi vì những gì đang xảy ra.

Mãi đến khoảng 2g trưa việc dọn đồ đạc lên xe mới xong để chuẩn bị lên đường về “nhà mới”. Tại Tân Phú, cuộc “hành quân” thứ hai bắt đầu, nhân viên hì hục chuyển đồ đạc vào nhà, công nhân còn phải lắp ráp giừờng tủ, bàn ghế cho đến lúc sẩm tối mới xong.

 

Bảng “Khu phố Văn hoá” dẫn vào nhà mới

 

Bây giờ mới hiểu thấm thía vì sao lúc sinh thời sinh thời mẹ tôi thường nói “một lần dọn nhà bằng ba lần… nhà cháy”. Với một người vào lứa tuổi “gần đất, xa trời” như tôi giờ mới thấy các cụ quả là tinh đời đã để lại cho con cháu những nhận xét thâm thuý.

Đêm đầu tiên ở nhà mới tôi ngủ một giấc thật ngon đến tận 5g sáng sau một ngày căng thẳng nhưng thật ra cũng chẳng phải làm những việc lao động chân tay. Quận Tân Phú rất gần với phi  trường Tân Sơn Nhất nên tiếng máy bay lên xuống nghe rõ mồn một, tuy vậy vẫn không hề ảnh hưởng đến giấc ngủ.

 

Một căn nhà tại ngã tư B2 & B3

 

Công việc trước tiên là sắp xếp bàn làm việc để tiếp tục giao lưu với bạn bè trên mạng xã hội qua laptop, màn hình TV và máy Scan. Công việc cũng khá đơn giản… Còn sách vở tính sau vì còn chờ ráp kệ sách.

 

Ưu tiên ổn định bàn làm việc

 

Sau đêm đầu tiên ở nhà mới, tôi quyết định nhờ con trai chở đi khám phá khu vực gần nhà. Quán cà phê đầu tiên là Nova Coffee vừa mới khai trương với màn quảng cáo khá hấp dẫn, “Cà phê đá 10K, Cà phê sữa 12K (Đã giảm 50%)…”.

 

Nova Coffee “Tưng bừng khai trương”

 

Nhìn chung, cà phê ở đây vào loại bậc trung nhưng dàn phục vụ đều là những thiếu nữ trẻ, chắc mới dời ghế nhà trường! Nova Coffee chia thành 2 khu: trong nhà và ngoài trời, khách cũng khá đông, có lẽ đang trong thời gian quảng cáo nên ai cũng ghé để trải nghiệm.

 

Trang trí bên trong Nova Coffee

 

Ngày thứ hai tại Tân Phú tôi quyết định khám phá bằng cách đi bộ. Giữ nguyên giờ giấc cũ khi còn ở Phú Nhuận, tôi ghé Viva với logo hình ngôi sao, một quán cà phê tương đối lâu đời. Cà phê ở đây tương đối khá hơn Nova Coffee mới khai trương.

 

Viva khu bên ngoài

 

Viva Coffee cũng thiết kế theo hai phần: bên trong dành cho khách không hút thuốc và bên ngoài dành cho… những “ống khói xe lửa”. Giá cả có phần “cứng” hơn Nova Coffee nhưng chất lượng có phần khá hơn rất nhiều.

 

Những bạn bè xưa cũ nay đâu?

 

Còn rất nhiều quán cà phê dọc theo đường B3, tôi nhủ lòng sẽ từ từ khám phá hết vì một “tỷ phú thời gian” như tôi bây giờ sẽ có điều kiện để ngồi hết các quán. Ngoại trừ trường hợp “bất khả kháng” khi không còn đủ sức khoẻ để ngồi quán.

 Hẹn các bạn trong những bài viết sau.

 


 *** 

--> Read more..

Thứ Hai, 13 tháng 10, 2025

Từ nhà… lên chùa

Sau một thời gian dài ngã bệnh và phải nhiều lần chịu đau đớn của phẫu thuật, bà xã tôi đã ra đi vào ngày cuối năm 2023, chính xác là ngày 30/12/2023. Con cháu dù ở nơi xa cũng đã hội tụ đông đủ để được nhìn thấy mặt người thân lần cuối cùng trước khi vĩnh viễn ra đi.

Đám tang thay vì ở nhà, được tổ chức tại chùa Vĩnh Nghiêm với sự kính viếng của bà con, thân hữu đến để chia sẻ niềm thương tiếc một người vừa nằm xuống. Lễ hoả thiêu được cử hành tại Bình Hưng Hoà và sau đó tro cốt được đem về nhà để thắp hương thờ kính.

 

Bàn thờ tại nhà

 

Lúc còn sinh thời, người con gái xứ Huế ngày nào có một nguyện ước: một khi qua đời, muốn được rải tro cốt xuống dòng sông Hương nơi đã sinh ra và lớn lên. Nguyện ước đó cho đến nay vì hoàn cảnh gia đình vẫn chưa thực hiện được.

Trong khi đó, một biến cố lớn đã xảy ra khi con gái tôi nhận được giấy tờ đoàn tụ với hai con đang định cư bên Úc châu. Tình hình đã thúc đẩy phải dẫn đến quyết định đưa tro cốt của người đã khuất gửi lên chùa, rất gần với nơi con trai tôi hiện đang ở.

Chùa Pháp Vân toạ lạc tại quận Tân Phú là một ngôi chùa lớn và cũng là nơi nhận lưu giữ rất nhiều tro cốt của những người đã khuất để hàng ngày những người qua đời được nghe tiếng kinh kệ và những bữa cơm chay của nhà chùa cúng dường hàng ngày.

 

Chùa Pháp Vân với cánh cửa rộng mở

 

Chùa Pháp Vân được sáng lập bởi Thiền sư Thích Nhất Hạnh vào năm 1965, Ngài là bậc thầy hướng dẫn tâm linh có công hạnh hoằng hóa rộng rãi đồng thời là một nhà văn hóa, nhà văn, nhà thơ, học giả, sử gia. Ngài viên tịch ngày 22/1/2022 (nhằm ngày 20 tháng Chạp năm Tân Sửu), trụ thế 97 tuổi và 72 hạ lạp tại Tổ đình Từ Hiếu, Thành phố Huế.

 

Thiền sư Nhất Hạnh, người sáng lập chùa Pháp Vân

 

Chùa Pháp Vân đã có hơn nửa thế kỷ tồn tại. Đây là một trong những công trình tôn giáo nổi bật tại thành phố với ba kỷ lục quốc gia: Tượng Bồ Tát Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, Cặp Kỳ Lân đá Hoa Cương, Bộ Kinh Bát Nhã khắc trên cửa gỗ sao. Ngôi chùa đã trải qua nhiều lần trùng tu để mang vẻ đẹp khang trang và hài hòa như hiện nay.

Công trình bao gồm Tòa Chánh Điện, Tổ Đường, Đại Giảng Đường, Linh Đường và Điện Di Đà. Đặc biệt, hai cầu thang dẫn lên chánh điện được tạc hình từ hai khối đá hoa cương lớn. Mỗi khối có chiều dài đến 10m, chiều rộng 4.2m và cao 5m. Công trình ấn tượng này được thực hiện bởi đội ngũ 15 thợ điêu khắc tài hoa trong suốt 3 năm (2010 - 2013).

 

Toàn cảnh Chùa Pháp Vân

 

Chùa Pháp Vân có một tháp cao 14 tầng (64m), từ trên tầng cao du khách ngắm nhìn toàn cảnh quận Tân Phú. Tháp được thiết kế tỉ mỉ, mỗi tầng đều có những nét đặc trưng riêng thể hiện sự kỳ công của những nghệ nhân.

 

Ngọn tháp cao 14 tầng

 

Bên trong chùa các thiết kế gỗ như cửa, bao lơn và bàn thờ đều được chạm khắc tinh xảo. Trong khuôn viên chùa trưng bày nhiều tượng rồng, phượng và kỳ lân bằng đá hoa cương và cẩm thạch.

Trong khuôn viên chùa còn có nhà tang lễ. Đây là nơi đã tổ chức nhiều lễ tang cho các gia đình trong khu vực. Nhà tang lễ được thiết kế với không gian ấm cúng và trang nghiêm giúp tạo ra sự riêng tư cho các gia đình.

Khu vực lưu giữ tro cốt của những người đã khuất được chia thành nhiều gian rộng rãi, thoáng mát nhiều tầng với lớp kính bao bọc. Qua khung kính, thân nhân có thể nhìn rõ hũ tro cốt của người thân mỗi khi đến viếng.

 

Sân chùa với tượng kỳ lân bằng đá hoa cương

 

Buổi lễ tiếp nhận tro cốt của bà xã tôi được diễn ra lúc 10g tại chánh điện. Có 3 bàn thờ nhỏ cho những người đã khuất trong đó 2 bàn dành cho những người vừa mới qua đời và một bàn dành cho gia đình tôi với hũ tro được chuyển từ nhà lên chùa.

Không khí buổi lễ thật trang nghiêm với những người thân hãy còn mặc tang chế của gia đình có người vừa mất. Riêng chúng tôi, những người chỉ chuyển hài cốt lên chùa, nên chỉ lặng lẽ chứng kiến buổi lễ giữa những tiếng sụt sùi của những người vừa mới… đi xa!

 

Tro cốt bà xã tôi đã an vị trên chùa

 

Người ta vẫn thường nói “Sinh Ly, Tử Biệt” nhưng có lẽ phải đến lúc này mới thấy thấm thía câu nói đó. Hơn bao giờ hết, những giây phút hành lễ trên Chùa Pháp Vân đã để lại một kỷ niệm khó quên trong ký ức: cuộc chia tay “từ gia đình lên chùa” mang thật nhiều ý nghĩa.

 

Hành lễ

 

Hãy an nghỉ dưới mái chùa từ bi để hàng ngày được nghe kinh kệ. 

Nam Mô A Di Đà Phật!

 

 

***

--> Read more..

Popular posts