Về lịch sử, Phật giáo tại Việt Nam bắt nguồn từ hai luồng du nhập chính: trực tiếp từ Ấn Độ và sau đó từ Trung Quốc, diễn ra vào những năm đầu Công nguyên qua các con đường giao thương.
Tuy nhiên, Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam đã được bản địa hóa, hòa hợp với tín ngưỡng dân gian và tư tưởng Nho giáo, tạo nên một diện mạo riêng, có tính nhập thế mạnh mẽ hơn.
Theo “Lĩnh Nam trích quái”, truyện "Nhất Dạ Trạch", thì Chử Đồng Tử là Phật tử người Việt đầu tiên, theo học đạo với nhà sư Phật Quang. Trong đó có đoạn viết:
"Thương nhân nước ngoài tới lui buôn bán kính thờ Tiên Dung và Đồng Tử làm chúa. Có một khách buôn lớn đến bảo Tiên Dung rằng: "Quý nhân hãy bỏ ra một dật vàng năm nay cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quý, đến sang năm được lãi mười dật".
“Đồng Tử bèn cùng thương nhân đi buôn án lênh đênh ra khắp nước ngoài. Có núi Quỳnh Viên trên núi có am nhỏ. Thương nhân ghé thuyền vào lấy nước. Đồng Tử lên am dạo chơi. Trong am có một tiểu tăng tên Phật Quang truyền pháp cho Đồng Tử. Đồng Tử ở lại để nghe pháp, đưa vàng cho thương nhân đi mua hàng.
“Đến lúc thương nhân trở về lại tới am đó chở Đồng Tử trở về nhà. Nhà sư bèn tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái nón: "Các việc linh thông đều ở đó rồi!. Đồng Tử trở về, đem đạo Phật nói hết với Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ, bèn bỏ cả quán chợ nghề buôn để cùng Đồng Tử du phương tìm thầy học đạo".
(hết trích)
Cũng như chuyện buôn bán, có khi đắt hàng nhưng lại cũng có lúc ế ẩm… chuyện học đạo của người Việt cũng không thoát khỏi quy luật bất biến đó. Nhìn lại bước đường tiếp xúc với Đạo Phật ở nước ta cũng có lúc thịnh, lúc suy… cũng có lúc đạt đến đỉnh cao nhưng cũng có khi gặp pháp nạn.
Sau một nghìn năm Bắc Thuộc, năm 905 Giao Châu chính thức độc lập. Năm 968 Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua, lập ra nhà Đinh, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, mở ra thời kì độc lập và thống nhất phát triển lâu dài trong lịch sử Việt Nam.
Đạo Phật thời này cũng trải qua một thời kỳ phát triển đến ở đỉnh cao và có liên quan đến nhiều sự kiện hệ trọng của đất nước. Khởi đầu là Đinh Tiên Hoàng với việc lập ra chức tăng thống cho thiền sư Khuông Việt, người đứng đầu Phật Giáo của đất nước.
Ở Việt Nam có 3 chùa được mệnh danh là "Nam thiên đệ nhất động": chùa Hương, chùa Bích Động, chùa Địch Lộng. Điều độc đáo ở đây là có khá nhiều chùa được xây dựng trong các hang núi đá vôi, dựa vào núi đá hoặc tận dụng hẳn núi đá làm chùa.
Nhà Lý ra đời tiếp tục đưa đạo Phật lên hàng “quốc giáo”, nhiều triều vua nối tiếp nhau đã thực hiện rất nhiều Phật sự, không chỉ góp phần phát triển việc tu học mà còn qua đó phát triển một nền văn hóa riêng của Đại Việt khác biệt với Trung Hoa.
Đạo Phật thời nhà Lý có nhiều ảnh hưởng không chỉ với dân thường mà cả vua quan. Có 9 trong số 19 vị của Thiền phái Thảo Đường là cư sĩ mà phần lớn là vua quan, trong đó có ba vị vua là Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông và Lý Cao Tông.
Về lối sống của người dân thời bấy giờ, học giả Hoàng Xuân Hãn viết trong tác phẩm "Lý Thường Kiệt": "Đời Lý có thể gọi là đời thuần nhất trong lịch sử nước ta. Đó chính là ảnh hưởng của đạo Phật".
Khi nhà Trần lên nắm quyền tiếp tục kế thừa và phát triển thêm nền tảng xã hội đã có từ thời Lý trong đó có đạo Phật. Nét nổi bật nhất của đạo Phật thời kì này là sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, do người Việt sáng lập mà tổ sư chính là thái thượng hoàng Trần Nhân Tông.
Đạo Phật đạt đến cực thịnh vào thời nhà Trần rồi bắt đầu suy thoái vào thời nhà Hậu Lê, mà hai nguyên nhân chính phải kể ra là: nguyên nhân nội tại trong chính đạo Phật và nguyên nhân ngoại tại từ sự phát triển của Khổng giáo, hay Nho giáo.
Chúa Nguyễn Phúc Chu là một Phật tử, pháp danh Hưng Long, còn có hiệu là Thiên Túng Đạo nhân do ngài Thạch Liêm, một danh tăng thuộc phái thiền Tào Động Trung Quốc đặt. Bốn năm sau khi lên ngôi chúa, ông thọ Bồ tát giới và thường tự ví mình là Duy Ma Cật.
Khi đất nước chia hai thành Đàng Ngoài và Đàng Trong thì tại Đàng Ngoài đạo Phật không phổ biến như ở Đàng Trong. Vào thế kỉ 17, dòng Thiền Tào Động từ Trung Hoa truyền vào Việt Nam và có nhiều ảnh hưởng tại Đàng Ngoài. Nhiều chùa ở Hà Nội như chùa Trấn Quốc, Hàm Long, Hòe Nhai... đến nay vẫn được xem là truyền thừa của dòng thiền này.
Năm 1858, quân Pháp tấn công Đà Nẵng mở đầu gần 100 năm Việt Nam bị thực dân đô hộ. Chính quyền thực dân đã dùng nhiều phương kế nhằm tiêu diệt truyền thống lịch sử và văn hóa Việt Nam.
Đạo Phật lúc này đứng trước nguy cơ diệt vong do chính sách hủy diệt có hệ thống của người Pháp. Đến giữa thế kỉ 20, đất nước bị chia hai, chính sách của các thể chế cầm quyền với đạo Phật không tích cực hơn thời Pháp thuộc, không ngăn cấm nhưng cũng không khuyến khích.
Tại miền nam, vào thời Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị cáo buộc kì thị đạo Phật. Vì chính sách mà giới lãnh đạo Phật giáo cho là ưu đãi Thiên Chúa giáo của chính phủ. Rất nhiều Phật tử miền Nam đã “xuống đường” để ủng hộ Phật giáo ở Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn. Đỉnh điểm là sự kiện nhà sư Thích Quảng Đức tự thiêu năm 1963 để phản đối sự kì thị này.
Cuối
cùng, cuộc đảo chính quân sự vào tháng 11/1963 đã lật đổ chính quyền và giết chết
anh em Ngô Đình Diệm. Hành động tự thiêu của Thích Quảng Đức được coi như một
bước ngoặt trong cuộc khủng hoảng Phật giáo Việt Nam, dẫn tới việc xóa bỏ nền Đệ
Nhất Cộng hòa tại miền Nam Việt Nam.
Sang
đến Đệ nhị Cộng hòa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Phật giáo có điều kiện
phát triển hơn. Có nhiều phong trào phật giáo xuất hiện trong thời kỳ này, cả
thân chính quyền lẫn thân Cộng sản. Bên cạnh đó, Hội Lục hòa Phật tử được thành
lập nằm trong khuôn khổ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam.
Ngay từ giữa thập niên 1960 Giáo hội Phật giáo tại Miền Nam đã có sự rạn nứt trong giới lãnh đạo. Hàng giáo phẩm chia thành hai khối: "Khối Ấn Quang" do Thượng tọa Thích Trí Quang và Đại đức Thích Nhất Hạnh lãnh đạo và "Khối Việt Nam Quốc tự" do Hòa thượng Thích Tâm Châu chủ trương đường lối ôn hòa hơn.
Tại Miền Bắc, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, do theo đuổi chủ nghĩa Mác Lê nên trong mấy năm đầu chính quyền hạn chế hoạt động tín ngưỡng, kiểm soát gắt gao đạo Phật cũng như các tôn giáo khác, kể cả tín ngưỡng thờ tổ tiên của người Việt vì cho đó là mê tín dị đoan, tàn dư phong kiến làm mê muội dân trí.
Từ năm 1976, chính quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục thực hiện chính sách của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, các hoạt động tín ngưỡng của đạo Phật cũng như nhiều tôn giáo khác đều phải chịu sự quản lý của nhà nước.
Sau sự kiện 30/4/1975, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất và các phong trào Phật giáo khác ở miền Nam Việt Nam bị hạn chế hoạt động. Đây có thể gọi là “thời kỷ mạt pháp”, một loạt các nhà tu có chức danh đi ra nước ngoài, như Thích Nhất Hạnh, Thích Tâm Châu.
Năm 1981, nhằm thống nhất các hệ phái Phật giáo, sau ba năm vận động, chính phủ cho thành lập một tổ chức mới mang tên Giáo hội Phật giáo Việt Nam làm tổ chức duy nhất đại diện Phật giáo toàn quốc, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hàng ngũ giáo phẩm thiên tả trong Giáo hội ủng hộ đường lối này. Trưởng ban vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam là Hòa thượng Thích Trí Thủ, đảng viên cán bộ được Ban Tôn giáo chính phủ giao nhiệm vụ thực hiện việc hợp nhất Phật giáo nằm dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tuy nhiên, một số thành viên khác của Giáo hội Thống nhất không chấp nhận tổ chức này và bị chính phủ ép giải tán nhưng không qua văn bản chính thức của chính phủ. Ban lãnh đạo Giáo hội bị quản thúc và trụ sở tại chùa Ấn Quang bị giải tỏa. Mất trụ sở và nhân sự Giáo hội Thống nhất trong nước ngưng hoạt động hoàn toàn.
Đó có thể được coi như “pháp nạn” mới nhất của Phật Giáo với những biến cố ảnh hưởng sâu sắc đến nếp sống tôn giáo của người Việt với những tư tưởng được coi là “mới lạ” nếu so với những khái niệm ban đầu của những ngày mới du nhập.
Trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày nay, nổi bật có Thượng tọa, Tiến sĩ Thích Nhật Từ, hùng cứ tại phía Nam với các chức vụ quan trọng như Ủy viên Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Trưởng ban Ban Trị sự kiêm Trưởng ban Phật giáo Quốc tế, Phó Viện trưởng thường trực Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. HCM…
Thích Nhật Từ kêu gọi Phật tử “cúng dường” bằng hiện kim khiến nhiều người đâm ra thắc mắc về động cơ của hành động này. Nhiều người còn bị sốc khi phát hiện ra nhà sư sở hữu một tài sản khổng lồ kèm theo những phương tiện xa hoa, phù phiếm…
Tại
miền Bắc có Đại đức Thích Trúc Thái Minh, sinh năm 1967, trụ trì chùa Ba Vàng,
Uông Bí, Quảng Ninh từ năm 2007. Ông khẳng định một lý thuyết mới:
“Thuyết oan gia trái chủ” hoàn toàn có thật và chùa Ba Vàng có lễ giải oán kết, giải oan gia: Vong linh đi theo báo oán, báo thù rất nhiều, tác động vào chúng ta. Chùa ta có pháp thỉnh oan gia trái chủ để giải những oán kết này. Việc thỉnh giải oan gia trái chủ chỉ có đức của Phật từ bi mới làm được…”
Năm 2007, Đại đức Thích Trúc Thái Minh về làm trụ trì chùa Ba Vàng. Tháng 1/2011, để đáp ứng nhu cầu tu học của tăng ni, phật tử và hoằng dương Phật pháp, ngôi chùa một lần nữa được khởi công xây dựng với quy mô to lớn, khang trang.
Sau hơn 3 năm xây dựng, ngày 9/3/2014 chùa Ba Vàng tổ chức Lễ khánh thành và nhận bằng kỷ lục "Ngôi chùa trên núi có Chính Điện lớn nhất Đông Dương". Đại đức Thích Trúc Thái Minh được đánh giá là người có công lớn trong việc huy động nguồn lực xã hội hoá để xây dựng cơ ngơi chùa to đẹp như hiện nay. Ước tính, với quy mô hiện tại, nhà chùa đã phải tiêu tốn hàng trăm tỷ đồng vào việc trùng tu, xây dựng.
Những
phản ánh của báo Lao Động thu hút sự quan tâm của dư luận, nhiều người dễ dàng
tìm ra những clip rao giảng của Đại đức Thái Minh và người phụ nữ tên Phạm Thị
Yến (pháp danh Tâm Chiếu Hoàn Quán) trên các trang Facebook và YouTube của nhà
chùa. Trong những clip này, bà Yến đã đưa ra nhiều thông tin phản khoa học,
trái giáo lý nhà Phật.
Trong một clip khác, Đại đức Thái Minh khẳng định: “Phật dạy chúng ta biết bố thí và cúng dường. Mình cúng để giải bệnh, giải nghiệp của mình mà mình lại còn kêu sao? Phật dạy các Phật tử mất tiền đấy! Phải mất tiền mới có phúc. Phật dạy bố thí đứng đầu trong lục độ!”
Đã có nạn nhân bị chùa Ba Vàng đòi hàng trăm triệu đồng để “giải nghiệp”. Trong lúc “thỉnh vong” luôn có một thư ký bên cạnh, ghi lại lời “vong” nói và số tiền người “thỉnh” phải trả. Việc “thỉnh vong” là hoàn toàn không đúng với giáo lý nhà Phật, nó dẫn dắt con người đi theo con đường mê tín.
Chưa bao giờ Đạo Phật lâm vào tình trạng lùm xùm như hiện nay ở cả hai miền Nam-Bắc. Thêm vào đó, tình trạng sư sãi công khai tấn công nhau trên cộng đồng mạng trong một cuộc “đại chiến của các sư tăng”.
Thích Nhật Từ phê phán Thích Trúc Thái Minh về chuyện cúng dường ở chùa Ba Vàng: “Cũng không thể trách được Phật tử vì họ không biết các quy định của Đức Phật như thế nào. Còn với những người có nghiên cứu về giới luật Phật giáo sẽ thấy rằng, việc cúng dường như vậy là không phù hợp”.
Chùa Ba Vàng còn tổ chức hoạt động trưng bày, chiêm bái hiện vật được cho là "xá lợi tóc Đức Phật". Có người lại cho rằng không nên bêu xấu các “ma tăng”, vì họ làm thì họ chịu, mình nói ra, không những sẽ gây cái nhìn xấu về đạo Phật, mà còn tạo “khẩu nghiệp” cho chính bản thân.
Đây
chính là luận điệu của các “ma tăng”!
Họ luôn đem “khẩu nghiệp” ra để dọa
người khác, còn chính họ, thuyết những bài “pháp”
hủy báng đạo Phật, khiến Phật tử ngày càng u mê… thì họ không sợ “khẩu nghiệp” chăng?
Sự phê phán giữa các nhân vật trong giáo hội đã tiến sang một giai đoạn mới khi có sự xuất hiện của hành giả Minh Tuệ, xuất gia vào năm 2015, tại một cơ sở Phật giáo, nhưng rời đi sau một thời gian ngắn.
Từ năm 2018 ông thực hành 13 hạnh đầu đà của Phật giáo Nguyên thủy, bộ hành khất thực khắp đất nước trong nhiều năm. Hành trình đi bộ năm 2024 của ông gây nên sự chú ý với đông đảo quần chúng, thu hút hàng nghìn phật tử mến mộ.
Tháng 6/2024, Thích Minh Tuệ buộc phải ngừng bộ hành và ẩn tu. Từ tháng 12/2024, Thích Minh Tuệ cùng đoàn các khất sĩ tu hạnh đầu đà ra nước ngoài tiếp tục bộ hành và khất thực lần lượt ở các nước Lào, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Singapore, Sri Lanka và hiện tại là Ấn Độ.
Tính chính danh của ông cũng là đề tài được bàn tán rộng rãi. “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”, không coi ông là "tu sĩ Phật giáo" do ông không tu tập ở bất kỳ cơ sở tôn giáo nào của giáo hội. Tuy nhiên “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất” lai công nhận điều này và khen ngợi ông hội đủ phẩm hạnh cho danh xưng đó.
Mang hình ảnh một người vô danh tự nhận đang "tập học" theo lời Phật dạy với đầu trần, chân đất đi bộ khắp nơi, Thích Minh Tuệ đã trở thành một hiện tượng mạng, đồng thời truyền cảm hứng cho đức tu khổ hạnh từ bỏ vật chất khiến hàng nghìn người từ khắp nơi đến đảnh lễ ông.
Thượng tọa Thích Chân Quang, trụ trì chùa Thiền Tôn Phật Quang ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũng đả từng chỉ trích gay gắt Thích Minh Tuệ khi gọi vị tu sĩ là "thằng ba trợn". Riêng về Thích Nhật Từ, ông còn ký tên trên một văn bản gửi ra Phật giáo thế giới xác định sư Minh Tuệ “tu giả” vì không được Giáo hội công nhận.
Qua
sự kiện này người ta thấy ngay cả những người tu hành vẫn chưa vượt khỏi vòng “Tham – Sân – Si” thường thấy ở người trần
tục. Thế cho nên, Đạo Phật nước ta vẫn luôn mắc phải những pháp nạn lẽ ra không
đáng xảy ra!
.jpg)





Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét