Thứ Năm, 25 tháng 9, 2025

“Mưa đỏ”: Từ văn chương bước vào điện ảnh

“Mưa đỏ” (bản dịch tiếng Anh “Bloody Rain”) là một bộ phim điện ảnh thuộc thể loại lịch sử-chiến tranh, ra mắt năm 2025 do Đặng Thái Huyền làm đạo diễn. Phim được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Chu Lai (tên khai sinh là Chu Văn Lai, mang quân hàm Đại tá Quân đội Nhân dân).

Bộ phim do Điện ảnh Quân đội Nhân dân, HKFilm và Galaxy Studio hợp tác sản xuất, lấy bối cảnh tại Thành cổ Quảng Trị năm 1972, trong chiến tranh Việt Nam. “Mưa đỏ” được Chu Lai sáng tác năm 2016 xoay quanh cuộc chiến đấu 81 ngày đêm bảo vệ thành cổ của một tiểu đội lính trẻ, phần lớn là học sinh và sinh viên.

 

Poster phim “Mưa đỏ”

 

Sau khi ra mắt, bộ phim nhận về những lời khen ngợi từ giới chuyên môn, và là một thành công lớn về mặt thương mại. Với doanh thu hơn 557 tỷ VND, “Mưa đỏ” đã chính thức vượt qua kỷ lục của “Mai” để trở thành phim điện ảnh có doanh thu cao nhất lịch sử phòng vé tại Việt Nam.

Bộ phim kể về cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị của Cường và các thành viên khác của Tiểu đội 1, Tiểu đoàn K3 Tam Sơn của Quân Giải Phóng, chống lại sự tấn công của Quân lực Việt Nam Cộng hòa với sự hỗ trợ của cố vấn và quân đội Mỹ.

Cường là sinh viên tại Nhạc viện Hà Nội, nhưng đã từ bỏ cơ hội du học tại Học viện Âm nhạc Tchaikovsky để nhập ngũ. Sau khi được huấn luyện một số kỹ năng chiến đấu cơ bản, Cường cùng các tân binh khác lên đường ra mặt trận.

Sau khi được Hồng, một cô gái lái đò đưa qua sông Thạch Hãn trong đêm dưới làn đạn pháo của quân đội Việt Nam Cộng Hòa, Cường cùng với Sen, Bình, Tú, và Hải được bổ sung vào Tiểu đội 1 đang chiến đấu tại Thành cổ Quảng Trị.

Tiểu đội 1 lúc đó chỉ còn một mình Nông Văn Tạ còn sống, anh là người lớn tuổi nhất so với nhóm tân binh được bổ sung, và là người có kinh nghiệm chiến đấu nhiều nhất, nên trở thành Tiểu đội trưởng của Tiểu đội 1.


Diễn viện Phương Nam trong vai Tạ

 

Trong khi chiến đấu, Cường bị thương nặng, và được đưa ra chữa trị tại Trạm quân y dã chiến bên ngoài Thành cổ. Tại đây, Hồng trong vai trò y tá của Trạm quân y đã chăm sóc hàng ngày cho Cường. Hai người nảy sinh tình cảm và hẹn ước cùng nhau về thăm mẹ của Cường khi đất nước hòa bình.

Sau khi được chữa trị, Cường tình nguyện trở lại Thành cổ để chiến đấu cùng Tiểu đội 1. Các thành viên của Tiểu đội 1 đều quyết tâm bảo vệ Thành cổ, với khẩu hiệu "K3 Tam Sơn còn, Thành cổ còn"… nhưng họ lần lượt hy sinh, chỉ còn lại Tấn, thành viên nhỏ tuổi nhất và được bổ sung cuối cùng vào Tiểu đội 1.

 

Nhà văn Chu Lai

 

Theo chia sẻ của nữ đạo diễn Đặng Thái Huyền, toàn bộ số vũ khí, khí tài trong bộ phim đều là vũ khí thật, các diễn viên đều cũng được luyện tập bắn đạn để có thể làm quen với tiếng súng. Các xe thiết giáp M113 hay xe tăng M48 đều là các vũ khí chiến lợi phẩm thu được sau chiến tranh.

Ngoài ra, đoàn làm phim đã tiến hành khảo sát hơn 10 tỉnh, thành phố nhằm chọn ra những địa điểm quay phù hợp, trong đó có những cảnh được ghi hình tại Paris, Pháp. Một số địa phương tại Quảng Trị được chọn làm phim trường như xã Hải Lệ của phường An Đôn, thị xã Quảng Trị, xã Triệu Thượng của huyện Triệu Phong.

 

Đoàn làm phim “Mưa đỏ”

 

Được viết ở thời điểm khác nhau nên kịch bản phim và tiểu thuyết “Mưa đỏ” có nhiều chi tiết khác biệt. Một số nhân vật trong phim có số phận, tính cách không giống tiểu thuyết nguyên bản của Chu Lai.

Trong phim, sau một lần bị vùi lấp dưới đống đổ nát, chứng kiến đồng đội chết trước mặt, Sen (do diễn viên Lê Hoàng Long đóng) dù là đặc công tinh nhuệ với tinh thần thép nhưng lại trở thành người điên. Thế nhưng, trong tiểu thuyết, Sen chỉ giả điên để trốn tránh trách nhiệm, mãi sau này, Sen mới thức tỉnh và quyết tâm chiến đấu cùng đồng đội.

Sen vì bị điên loạn nên đã đứng múa may trước nòng súng của quân thù. Để cứu Sen, Tiểu đội trưởng Tạ đã trúng đạn và hy sinh. Chi tiết này có nhiều tranh cãi vì cái chết của Tạ quá đau lòng. Trong tiểu thuyết, Tạ được cho là có chiều sâu, chiến đấu anh dũng tới cùng, ngay cả khi sức khỏe suy yếu vẫn quyết sát cánh cùng đồng đội.

 

Diễn viên Lê Hoàng Long trong vai Sen

 

Tú (Đình Khang thủ vai) là cậu học trò bé nhỏ, chưa tốt nghiệp cấp 3 đã viết đơn bằng máu, xung phong ra chiến trường. Khi cầm súng, Tú cũng xông pha không kém đồng đội nào. Kết quả, dù là người trẻ nhất, Tú lại ra đi đầu tiên! Trong truyện, Tú lại nhút nhát, không có tinh thần chiến đấu, mãi sau này mới có thể hòa nhịp cùng các đồng đội.

 

Tú (Đình Khang), nhân vật ít tuổi nhất trong Tiểu đội 1

 

Cường (Đỗ Nhật Hoàng) hy sinh sau trận chiến với Quang (do Steven Nguyễn thủ vai lính VNCH). Sau trận đấu, cả 2 đã quyết định tha cho đối phương nhưng Cường lại bị đồng đội của Quang bắn lén.

Trong tiểu thuyết, khán giả đau lòng hơn khi đọc đến đoạn Hồng là người tìm ra xác của Cường. Chu Lai mô tả, Hồng tìm thấy Cường ở mép bờ sông, anh tỉnh lại, nói với Hồng bằng giọng yếu ớt: "Hồng... Tập giấy để trong người... em gửi về cho mẹ... Anh yêu em... Mẹ ơi!", và sau đó nhắm mắt...”

 

Quang (Steven Nguyễn thủ vai) và Cường (Đỗ Nhật Hoàng) trong phim

 

Về phần mình, đạo diễn Đặng Thái Huyền đã trả lời khi được hỏi “… so với tiểu thuyết gốc cùng tên, kịch bản phim theo chị đã chuyển tải được bao nhiêu phần tinh thần tác phẩm?”:

“Tôi không thể nói mình thực hiện bao nhiêu phần trăm của kịch bản. Điều cốt lõi là tôi giữ được tinh thần của nhà biên kịch Chu Lai gửi gắm trong tác phẩm nhưng tôi cũng phải có những điều chỉnh, thay đổi để phù hợp với điều kiện sản xuất, phù hợp với ngôn ngữ điện ảnh và phải phù hợp với cá tính, góc nhìn và màu sắc cá nhân của người đạo diễn.

“Trong phần mở đầu phim, đã có chú thích: “Đây là bộ phim hư cấu và lấy cảm hứng từ sự kiện có thật ở Quảng Trị năm 1972. Không phải chúng tôi né tránh điều gì hết, nhưng phim truyện không phải là phim tài liệu, phim sử. Câu chuyện lịch sử là chất xúc tác, là chất liệu để trên cơ sở đó nhà làm phim lồng ghép những yếu tố nghệ thuật, trí tưởng tượng”.

(hết trích)

 

Đạo diễn Đặng Thái Huyền

 

Rất đông khán giả ủng hộ khi đến rạp xem phim “Mưa đỏ”… nhưng ngược lại, cũng có người đưa ra những ý kiến trái chiều. Âu đó cũng là lẽ thường tình của dư luận trước một hiện tượng đặc biệt.

Trên Facebook của mình trong bài viết “Mưa đỏ và 81 ngày đêm” (https://1thegioi.vn/cuu-binh-thanh-co-quang-tri-khong), Bác sĩ Trịnh Hòa Bình, cựu chiến binh tham gia trận Thành cổ Quảng Trị 1972 cho rằng: “Tại điểm Thành cổ Quảng Trị, chúng ta thua. Còn nhìn toàn cục là chúng ta thắng”.

Ý kiến của Trịnh Hòa Bình về bộ phim “Mưa đỏ”:

1. Không có trận đánh nào trong Thành cổ. Trong 81 ngày đêm, giao tranh chủ yếu diễn ra bên ngoài, quanh sông Thạch Hãn và các điểm chốt xung quanh. Bên trong Thành cổ không hề có những trận chiến như phim tái hiện.

2. Điều kiện thực tế khốc liệt, thiếu thốn. Người lính không có hầm hào, bao cát, hay trang thiết bị đầy đủ như phim vẽ. Thực tế gian khổ, thiếu thốn và đau thương hơn nhiều so với hình ảnh điện ảnh lãng mạn hóa.

3. Không có chuyện lính Việt Nam Cộng hòa gom xác bộ đội rồi chất đống đốt. Đây là chi tiết hoàn toàn sai sự thật, không hề xảy ra trong thực tế. Những cảnh như vậy chỉ là hư cấu điện ảnh, dễ gây hiểu nhầm nghiêm trọng cho người xem.

4. Phim có quyền hư cấu, nhưng lịch sử thì không. Nghệ thuật có thể sáng tạo, nhưng phim lịch sử cần bám sát sự thật. Nếu tái hiện sai, thế hệ sau sẽ hiểu lầm về những gì thực sự đã diễn ra.

Trải nghiệm của người trong cuộc. Là cựu binh từng chiến đấu ở Thành cổ, bác Trịnh Hòa Bình khẳng định: những gì phim thể hiện khác xa thực tế. Điều đó khiến bác bức xúc vì sự thật lịch sử không thể bị thay thế bằng hư cấu.

 

Cổ thành Quảng Trị bên dòng sông Thạch Hãn

 

Facebooker Thanh Hằng (https://www.facebook.com/thanhhang1501) viết: “Trước hết phải hiểu Mưa đỏ là PHIM TRUYỆN lịch sử, chứ không phải PHIM TÀI LIỆU lịch sử.

Mà đã là “truyện” thì đương nhiên có hư cấu, thêm thắt, sáng tạo để kể câu chuyện cho hấp dẫn. Còn phim tài liệu lịch sử mới bắt buộc phải khớp từng chi tiết với sự thật...”

 

Một cảnh trong phim

 

Tóm lại, lịch sử không cần được tô màu sặc sỡ. Trái lại, cần được ghi chép trung thực để thế hệ sau hiểu, chứ không phải để họ hận thù hay cuồng tín.

 

***
--> Read more..

Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2025

Du hành ngược thời gian

Tùy theo túi tiền, người ta thường thực hiện các cuộc du lịch một cách đa dạng.

Nói chung, ít tiền thì làm những chuyến du lịch nội địa để thăm các danh lam, thắng cảnh trong nước. Tiền bạc rủng rỉnh lại tính đến việc ra nước ngoài để chiêm ngưỡng các cảnh đẹp nổi tiếng thế giới để mở rộng tầm mắt.

Bản thân việc du lịch nước ngoài cũng lại chia ra nhiều loại khác nhau, tuỳ theo mức độ tốn kém và khoảng cách địa lý của các chuyến “cưỡi ngựa xem hoa”.

Bạn có thể đến các nước lân cận ở Đông Nam Á hay rủng rỉnh hơn thì đến Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Úc để làm giàu thêm những kiến thức về các nển văn minh đặc thù thường được nói đến qua sách vở, báo chí.

Cũng có một hình thức du lịch “không tốn tiền” mà chỉ tốn thì giờ theo dõi qua các trang hình ảnh trên Internet, lúc nào cũng sẵn sàng cung cấp cho “kẻ nằm nhà” chỉ qua một cú “click” chuột!

Còn một cách du lịch thuộc loại này mà chúng tôi tạm gọi là “du hành ngược thời gian” qua đó ta vừa có thể ngắm cảnh hiện tại, lại vừa có dịp tìm hiểu xem ngày xưa nó trông như thế nào.

Nhân cuối tuần, “Thank God It’s Friday”, mời các bạn ngồi nhà nhưng vẫn có thể tìm hiểu về những địa điểm du lịch ngày xưa và ngày nay để chiêm ngưỡng chúng khác nhau như thế nào.

Mời các bạn cùng đi thăm những thắng cảnh Xưa & Nay nhiều thú vị này…

 

***


Cầu Westminster và Tháp đồng hồ Big Ben - Luân Đôn, Anh


Đấu trường Colosseum - Rome, Ý




Đại lộ Iéna - Paris, Pháp




Hệ thống cóng nước Byzantine - Selcuk, Thổ Nhĩ Kỳ




Khải Hóàn Môn (Arc de Triomphe) - Paris, Pháp




Khu thương mại Eliseyev - Saint-Petersburg, Nga




Kim tự tháp Giza - Sa mạc Giza, Ai Cập



Lâu đài Aoba - Sendai, Nhật Bản




Machu Picchu - Cordillera de Vilcabamba, Peru




Tấm bảng Hollywood - Los Angeles, CA, Hoa Kỳ




Tháp Eiffel - Paris, Pháp




Trung tâm lịch sử Nijmegen - Nijmegen, the Hoà Lan




Vạn Lý Trường Thành - Trung Quốc




Vatican - Rome, Ý


Viện bảo táng Louvre - Paris, Pháp


***






























 

--> Read more..

Thứ Hai, 15 tháng 9, 2025

Một sự hiều lầm… đáng trân trọng

Ngày 8/9/2025  tôi có post một bài viết trên Facebook mang tựa đề “Những điều cần biết khi người thân ngã bệnh”. Bài này mới chỉ có hơn 20 người vào đọc nhưng có điều ở phần comments có một bình luận của ông bạn già “Ong Lac” hiện sống ở nườc ngoài viết:

“Già rồi… thì cũng phải chết… Đó là sự bình thường của tạo hóa… Sinh, lão, bệnh, tử… là chu kỳ tuần hoàn của vũ trụ… nhưng Chính ơi… khi biết cái chết để rồi chẳng lo lắng gì… chỉ chờ tới phiên mình để theo Ông, theo Bà… Nhưng… Trời chẳng để mình đi như thế Bạn ạ … Hãy dững dưng chờ đợi Ngày đó…. Hihi… Chúc bình an…”

Anh bạn Van Danh Nguyen còn viết hẳn một status ngắn với nội dung “Mong anh sức khỏe ổn định và bình an”.

Trên messenger, cô học trò cũ, ca sĩ Phuong Hong Que từ nước ngoài nhắn tin: “Thưa thầy, dạo này sức khoẻ thầy thế nào? Em kính thăm thầy và gia đình”.

Thậm chí cả hai cô con gái tôi hiện sống tại nước ngoài cũng điện thoại hỏi thăm và nhắn tin: “How are you Dad? Everything is OK?”.

Hoá tất cả chỉ là “một sự hiểu lầm” từ bài viết “Những điều cần biết khi người thân ngã bệnh”.

Bài này thực ra tôi đã viết từ khá lâu nhưng nay mới post trên Facebook khiến người đọc cứ tưởng… “tôi đang ngã bệnh”. Tuy nhiên, bạn bè và người thân khiến tôi phải “ngả mũ trân trọng” vì những lời thăm hỏi đầy nhiệt tình.

Thế mới biết mình vẫn còn “ở trong tim” bạn bè và người thân… bất chấp mọi khoảng cách địa lý. Cho đến giờ phút này tôi vẫn bình thường sống trong tuổi già, bình an và thanh thản chờ “chuyến tàu tốc hành” cho một chuyến đi xa.

Một lần nữa, xin đa tạ những cảm tình mà các bạn đã dảnh cho tôi. Cũng xin cáo lỗi vì chuyện hiểu lầm nhưng… rất đáng trân trọng này!

 



***


Những điều cần biết khi người thân ngã bệnh

 

“Sinh – Lão – Bệnh – Tử” là vòng tuần hoản “bất di, bất dịch” của cuộc đời, đó là điều mà mọi người, từ giàu sang đến bần hàn, không thể nào thoát khỏi. Ở đây, chúng ta chỉ bàn đến giai đoạn cuối cùng của một đời người, một giai đoạn không thể nào tránh khỏi vì “có Sinh ắt có Diệt”.

Lâm chung, từ trần, hay nói một cách đơn giản: Chết, là một đề tài không người nào muốn đề cập đến nhưng lại là một biến cố không sớm thì muộn sẽ xảy đến với tất cả mọi người. Thế cho nên chúng ta… đành chấp nhận sự đau buồn khi có người thân từ trần.

Có một sự thật ít ai nhận ra: càng hiểu về cái chết… chúng ta càng bớt đi những ám ảnh khủng khiếp khi người mà ta yêu thương phải từ giã cõi đời. Đặc biệt đối với người già, khi tuổi đời chồng chất nên một khi ngã bệnh cũng là lúc con, cháu phải sống trong sự lo lắng luôn luôn rình rập.

Điều cần xác định lại: chết là một tiến trình nối tiếp nhau chứ không phải là một diễn biến đột ngột. Điều này có nghĩa người ta qua đời vì nhiều lý do, qua những biểu hiện như nhịp thở chậm lại, mạch yếu, huyết áp xuống thấp, kể cả hiện tượng màu da thay đổi.

Tiến trình cũng như thứ tự của các triệu chứng này sẽ thay đổi theo từng người, từng hoàn cảnh. Bình thường thì màu da trở nên tái xanh, các ngón tay bắt đầu lạnh, mạch yếu và hơi thở trở nên bất thường. Khi hơi thở chậm lại, đó lá lúc Tử Thần đến gần.

Khi người bệnh ở trong trạng thái này, họ có thể ngừng thở từ 15 đến 20 giây, đó là lúc những người thân nghĩ rằng cái chết đã đến. Nhưng đó cũng là một sai lầm vì hiện tượng này chỉ là tự nhiên, hoàn toàn không có nghĩa là người bệnh đã từ giã cõi đời vì sự chết phải trải qua hai giai đoạn.

Ở giai đoạn thứ nhất là “cái chết lâm sàng” khi trái tim ngừng đập, khoảng từ 4 đến 6 phút sau khi ngưng thở. Tế bào não bắt đầu “chết” vì thiếu oxy, dẫn đến “cái chết sinh học” nhưng vẫn còn cơ hội cứu sống nhờ áp dụng một quy trình cấp cứu “hồi sức tim phổi” mà trong y học gọi là CPR (cardiopulmonary resuscitation).

 

Quy trình cấp cứu CPR

 

CPR là một quy trình cấp cứu kết hợp giữa ép tim trong lồng ngực và thông khí nhân tạo được sử dụng để cứu sống một người đã ngừng thở hoặc tim ngừng đập. Chỉ khi nào CPR thất bại, khi đó người bệnh mới hoàn toàn… chết hẳn vì các tế bào não không thể làm sống lại.

Phần quan trọng của CPR là ép tim trong lồng ngực, giữ cho máu lưu thông đến các cơ quan quan trọng trong cơ thể cho đến khi nhịp tim trở lại bình thường hoặc khi có các phương tiện hỗ trợ tim mạch chuyên biệt đến nơi.

Thông khí nhân tạo (hay đưa không khí có oxy vào phổi) đảm bảo cung cấp nhiều oxy hơn cho người bị ngừng tim, hoặc khi bệnh nhân bị suy hô hấp.

Việc tiến hành CPR không diễn biến một cách thuận lợi như ta thường thấy trong phim ảnh, qua đó nạn nhân thường được cứu sống một cách “thần kỳ”! Sự thật khác xa những gì diễn biến trong cuộc đời thường, nhất là đối với những người có tiền sử bệnh tật kéo dài.

Theo thống kê năm 2020 tại Mỹ, tỷ lệ thành công đồi với những người mắc bệnh tim mạch chỉ đạt 12% khi thực hiện CPR ngoài phạm vi bệnh viện, tỷ lệ này tăng từ 24 đến 40% trong bệnh viện. Thế cho nên, CPR vẫn chưa phải là “giải pháp tối ưu” dù đã được tiến hành một cách bài bản.

 

Tiến hành hô hấp nhân tạo

 

Ngoài ra, CPR lại còn để lại những hậu quả “tiêu cực” cho người bệnh một khi đã được cứu sống. Chẳng hạn như tiến trình này có thể làm nứt hoặc gãy sương sườn trong khi hô hấp nhân tạo khiến bệnh nhân phải thêm thời gian điều trị tại bệnh viện.

Ngay cả hệ hô hấp và đường miệng cũng có thể bị ảnh hưởng như thanh quản trong cổ họng, phổi bị xẹp, nhiễm trùng hô hấp, thậm chí răng bị sứt mẻ trong quá trình hô hấp nhân tạo. Cũng vì CPR, não bộ có thể không hoạt động bình thường như trước đó.

Một cuộc nghiên cứu năm 2020 cũng cho thấy hệ thống thính giác của những người trước ngưỡng cửa lìa đời không còn nhạy bén như trước… nhưng điều quan trọng là con cháu nên tiếp tục nói lên những tình cảm của mình đối với người thân trước khi lìa đời.


Thực hiện hồi sức tim phổi

 Đó là cách biểu thị lòng yêu thương của những người còn sống. Các cụ ngày xưa thường nói:

“Nghĩa tử là nghĩa tận” !

 

***


--> Read more..

Thứ Năm, 11 tháng 9, 2025

Đạo Phật và những pháp nạn

Về lịch sử, Phật giáo tại Việt Nam bắt nguồn từ hai luồng du nhập chính: trực tiếp từ Ấn Độ và sau đó từ Trung Quốc, diễn ra vào những năm đầu Công nguyên qua các con đường giao thương.

Tuy nhiên, Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam đã được bản địa hóa, hòa hợp với tín ngưỡng dân gian và tư tưởng Nho giáo, tạo nên một diện mạo riêng, có tính nhập thế mạnh mẽ hơn.

Theo “Lĩnh Nam trích quái”, truyện "Nhất Dạ Trạch", thì Chử Đồng Tử là Phật tử người Việt đầu tiên, theo học đạo với nhà sư Phật Quang. Trong đó có đoạn viết:

"Thương nhân nước ngoài tới lui buôn bán kính thờ Tiên Dung và Đồng Tử làm chúa. Có một khách buôn lớn đến bảo Tiên Dung rằng: "Quý nhân hãy bỏ ra một dật vàng năm nay cùng thương nhân ra nước ngoài mua vật quý, đến sang năm được lãi mười dật".

“Đồng Tử bèn cùng thương nhân đi buôn án lênh đênh ra khắp nước ngoài. Có núi Quỳnh Viên trên núi có am nhỏ. Thương nhân ghé thuyền vào lấy nước. Đồng Tử lên am dạo chơi. Trong am có một tiểu tăng tên Phật Quang truyền pháp cho Đồng Tử. Đồng Tử ở lại để nghe pháp, đưa vàng cho thương nhân đi mua hàng.

“Đến lúc thương nhân trở về lại tới am đó chở Đồng Tử trở về nhà. Nhà sư bèn tặng cho Đồng Tử một cây gậy và một cái nón: "Các việc linh thông đều ở đó rồi!. Đồng Tử trở về, đem đạo Phật nói hết với Tiên Dung. Tiên Dung giác ngộ, bèn bỏ cả quán chợ nghề buôn để cùng Đồng Tử du phương tìm thầy học đạo".

(hết trích)

Cũng như chuyện buôn bán, có khi đắt hàng nhưng lại cũng có lúc ế ẩm… chuyện học đạo của người Việt cũng không thoát khỏi quy luật bất biến đó. Nhìn lại bước đường tiếp xúc với Đạo Phật ở nước ta cũng có lúc thịnh, lúc suy… cũng có lúc đạt đến đỉnh cao nhưng cũng có khi gặp pháp nạn.

Sau một nghìn năm Bắc Thuộc, năm 905 Giao Châu chính thức độc lập. Năm 968 Đinh Tiên Hoàng lên ngôi vua, lập ra nhà Đinh, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, mở ra thời kì độc lập và thống nhất phát triển lâu dài trong lịch sử Việt Nam.

Đạo Phật thời này cũng trải qua một thời kỳ phát triển đến ở đỉnh cao và có liên quan đến nhiều sự kiện hệ trọng của đất nước. Khởi đầu là Đinh Tiên Hoàng với việc lập ra chức tăng thống cho thiền sư Khuông Việt, người đứng đầu Phật Giáo của đất nước.

Ở Việt Nam có 3 chùa được mệnh danh là "Nam thiên đệ nhất động": chùa Hương, chùa Bích Động, chùa Địch Lộng. Điều độc đáo ở đây là có khá nhiều chùa được xây dựng trong các hang núi đá vôi, dựa vào núi đá hoặc tận dụng hẳn núi đá làm chùa.

Nhà Lý ra đời tiếp tục đưa đạo Phật lên hàng “quốc giáo”, nhiều triều vua nối tiếp nhau đã thực hiện rất nhiều Phật sự, không chỉ góp phần phát triển việc tu học mà còn qua đó phát triển một nền văn hóa riêng của Đại Việt khác biệt với Trung Hoa.

Đạo Phật thời nhà Lý có nhiều ảnh hưởng không chỉ với dân thường mà cả vua quan. Có 9 trong số 19 vị của Thiền phái Thảo Đường là cư sĩ mà phần lớn là vua quan, trong đó có ba vị vua là Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông và Lý Cao Tông.

Về lối sống của người dân thời bấy giờ, học giả Hoàng Xuân Hãn viết trong tác phẩm "Lý Thường Kiệt": "Đời Lý có thể gọi là đời thuần nhất trong lịch sử nước ta. Đó chính là ảnh hưởng của đạo Phật".

Khi nhà Trần lên nắm quyền tiếp tục kế thừa và phát triển thêm nền tảng xã hội đã có từ thời Lý trong đó có đạo Phật. Nét nổi bật nhất của đạo Phật thời kì này là sự ra đời của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, do người Việt sáng lập mà tổ sư chính là thái thượng hoàng Trần Nhân Tông.

Đạo Phật đạt đến cực thịnh vào thời nhà Trần rồi bắt đầu suy thoái vào thời nhà Hậu Lê, mà hai nguyên nhân chính phải kể ra là: nguyên nhân nội tại trong chính đạo Phật và nguyên nhân ngoại tại từ sự phát triển của Khổng giáo, hay Nho giáo.

Chúa Nguyễn Phúc Chu là một Phật tử, pháp danh Hưng Long, còn có hiệu là Thiên Túng Đạo nhân do ngài Thạch Liêm, một danh tăng thuộc phái thiền Tào Động Trung Quốc đặt. Bốn năm sau khi lên ngôi chúa, ông thọ Bồ tát giới và thường tự ví mình là Duy Ma Cật.

Khi đất nước chia hai thành Đàng Ngoài và Đàng Trong thì tại Đàng Ngoài đạo Phật không phổ biến như ở Đàng Trong. Vào thế kỉ 17, dòng Thiền Tào Động từ Trung Hoa truyền vào Việt Nam và có nhiều ảnh hưởng tại Đàng Ngoài. Nhiều chùa ở Hà Nội như chùa Trấn Quốc, Hàm Long, Hòe Nhai... đến nay vẫn được xem là truyền thừa của dòng thiền này.

Năm 1858, quân Pháp tấn công Đà Nẵng mở đầu gần 100 năm Việt Nam bị thực dân đô hộ. Chính quyền thực dân đã dùng nhiều phương kế nhằm tiêu diệt truyền thống lịch sử và văn hóa Việt Nam.

Đạo Phật lúc này đứng trước nguy cơ diệt vong do chính sách hủy diệt có hệ thống của người Pháp. Đến giữa thế kỉ 20, đất nước bị chia hai, chính sách của các thể chế cầm quyền với đạo Phật không tích cực hơn thời Pháp thuộc, không ngăn cấm nhưng cũng không khuyến khích.

Tại miền nam, vào thời Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị cáo buộc kì thị đạo Phật. Vì chính sách mà giới lãnh đạo Phật giáo cho là ưu đãi Thiên Chúa giáo của chính phủ. Rất nhiều Phật tử miền Nam đã “xuống đường” để ủng hộ Phật giáo ở Huế, Đà Nẵng và Sài Gòn. Đỉnh điểm là sự kiện nhà sư Thích Quảng Đức tự thiêu năm 1963 để phản đối sự kì thị này.

 

Hoà thượng Thích Quảng Đức (1897-1963)

 

Cuối cùng, cuộc đảo chính quân sự vào tháng 11/1963 đã lật đổ chính quyền và giết chết anh em Ngô Đình Diệm. Hành động tự thiêu của Thích Quảng Đức được coi như một bước ngoặt trong cuộc khủng hoảng Phật giáo Việt Nam, dẫn tới việc xóa bỏ nền Đệ Nhất Cộng hòa tại miền Nam Việt Nam.


Bức ảnh của Malcolm Browne chụp Thích Quảng Đức tự thiêu đã nhận được giải “Ảnh báo chí” năm 1963

 

Sang đến Đệ nhị Cộng hòa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Phật giáo có điều kiện phát triển hơn. Có nhiều phong trào phật giáo xuất hiện trong thời kỳ này, cả thân chính quyền lẫn thân Cộng sản. Bên cạnh đó, Hội Lục hòa Phật tử được thành lập nằm trong khuôn khổ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam.

Ngay từ giữa thập niên 1960 Giáo hội Phật giáo tại Miền Nam đã có sự rạn nứt trong giới lãnh đạo. Hàng giáo phẩm chia thành hai khối: "Khối Ấn Quang" do Thượng tọa Thích Trí Quang và Đại đức Thích Nhất Hạnh lãnh đạo và "Khối Việt Nam Quốc tự" do Hòa thượng Thích Tâm Châu chủ trương đường lối ôn hòa hơn.

Tại Miền Bắc, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, do theo đuổi chủ nghĩa Mác Lê nên trong mấy năm đầu chính quyền hạn chế hoạt động tín ngưỡng, kiểm soát gắt gao đạo Phật cũng như các tôn giáo khác, kể cả tín ngưỡng thờ tổ tiên của người Việt vì cho đó là mê tín dị đoan, tàn dư phong kiến làm mê muội dân trí.

Từ năm 1976, chính quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục thực hiện chính sách của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, các hoạt động tín ngưỡng của đạo Phật cũng như nhiều tôn giáo khác đều phải chịu sự quản lý của nhà nước.

Sau sự kiện 30/4/1975, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất và các phong trào Phật giáo khác ở miền Nam Việt Nam bị hạn chế hoạt động. Đây có thể gọi là “thời kỷ mạt pháp”, một loạt các nhà tu có chức danh đi ra nước ngoài, như Thích Nhất Hạnh, Thích Tâm Châu.

Năm 1981, nhằm thống nhất các hệ phái Phật giáo, sau ba năm vận động, chính phủ cho thành lập một tổ chức mới mang tên Giáo hội Phật giáo Việt Nam làm tổ chức duy nhất đại diện Phật giáo toàn quốc, là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Hàng ngũ giáo phẩm thiên tả trong Giáo hội ủng hộ đường lối này. Trưởng ban vận động Thống nhất Phật giáo Việt Nam là Hòa thượng Thích Trí Thủ, đảng viên cán bộ được Ban Tôn giáo chính phủ giao nhiệm vụ thực hiện việc hợp nhất Phật giáo nằm dưới sự chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tuy nhiên, một số thành viên khác của Giáo hội Thống nhất không chấp nhận tổ chức này và bị chính phủ ép giải tán nhưng không qua văn bản chính thức của chính phủ. Ban lãnh đạo Giáo hội bị quản thúc và trụ sở tại chùa Ấn Quang bị giải tỏa. Mất trụ sở và nhân sự Giáo hội Thống nhất trong nước ngưng hoạt động hoàn toàn.

Đó có thể được coi như “pháp nạn” mới nhất của Phật Giáo với những biến cố ảnh hưởng sâu sắc đến nếp sống tôn giáo của người Việt với những tư tưởng được coi là “mới lạ” nếu so với những khái niệm ban đầu của những ngày mới du nhập.

Trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam ngày nay, nổi bật có Thượng tọa, Tiến sĩ Thích Nhật Từ, hùng cứ tại phía Nam với các chức vụ quan trọng như Ủy viên Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Phó Trưởng ban Ban Trị sự kiêm Trưởng ban Phật giáo Quốc tế, Phó Viện trưởng thường trực Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP. HCM…

Thích Nhật Từ kêu gọi Phật tử “cúng dường” bằng hiện kim khiến nhiều người đâm ra thắc mắc về động cơ của hành động này. Nhiều người còn bị sốc khi phát hiện ra nhà sư sở hữu một tài sản khổng lồ kèm theo những phương tiện xa hoa, phù phiếm…

 

Thuợng tọa Thích Nhật Từ

 

Tại miền Bắc có Đại đức Thích Trúc Thái Minh, sinh năm 1967, trụ trì chùa Ba Vàng, Uông Bí, Quảng Ninh từ năm 2007. Ông khẳng định một lý thuyết mới:

“Thuyết oan gia trái chủ” hoàn toàn có thật và chùa Ba Vàng có lễ giải oán kết, giải oan gia: Vong linh đi theo báo oán, báo thù rất nhiều, tác động vào chúng ta. Chùa ta có pháp thỉnh oan gia trái chủ để giải những oán kết này. Việc thỉnh giải oan gia trái chủ chỉ có đức của Phật từ bi mới làm được…”

Năm 2007, Đại đức Thích Trúc Thái Minh về làm trụ trì chùa Ba Vàng. Tháng 1/2011, để đáp ứng nhu cầu tu học của tăng ni, phật tử và hoằng dương Phật pháp, ngôi chùa một lần nữa được khởi công xây dựng với quy mô to lớn, khang trang.

Sau hơn 3 năm xây dựng, ngày 9/3/2014 chùa Ba Vàng tổ chức Lễ khánh thành và nhận bằng kỷ lục "Ngôi chùa trên núi có Chính Điện lớn nhất Đông Dương". Đại đức Thích Trúc Thái Minh được đánh giá là người có công lớn trong việc huy động nguồn lực xã hội hoá để xây dựng cơ ngơi chùa to đẹp như hiện nay. Ước tính, với quy mô hiện tại, nhà chùa đã phải tiêu tốn hàng trăm tỷ đồng vào việc trùng tu, xây dựng.

 

Chùa Ba Vàng

 

Những phản ánh của báo Lao Động thu hút sự quan tâm của dư luận, nhiều người dễ dàng tìm ra những clip rao giảng của Đại đức Thái Minh và người phụ nữ tên Phạm Thị Yến (pháp danh Tâm Chiếu Hoàn Quán) trên các trang Facebook và YouTube của nhà chùa. Trong những clip này, bà Yến đã đưa ra nhiều thông tin phản khoa học, trái giáo lý nhà Phật.

Trong một clip khác, Đại đức Thái Minh khẳng định: “Phật dạy chúng ta biết bố thí và cúng dường. Mình cúng để giải bệnh, giải nghiệp của mình mà mình lại còn kêu sao? Phật dạy các Phật tử mất tiền đấy! Phải mất tiền mới có phúc. Phật dạy bố thí đứng đầu trong lục độ!”

Đã có nạn nhân bị chùa Ba Vàng đòi hàng trăm triệu đồng để “giải nghiệp”. Trong lúc “thỉnh vong” luôn có một thư ký bên cạnh, ghi lại lời “vong” nói và số tiền người “thỉnh” phải trả. Việc “thỉnh vong” là hoàn toàn không đúng với giáo lý nhà Phật, nó dẫn dắt con người đi theo con đường mê tín.

Chưa bao giờ Đạo Phật lâm vào tình trạng lùm xùm như hiện nay ở cả hai miền Nam-Bắc. Thêm vào đó, tình trạng sư sãi công khai tấn công nhau trên cộng đồng mạng trong một cuộc “đại chiến của các sư tăng”.

Thích Nhật Từ phê phán Thích Trúc Thái Minh về chuyện cúng dường ở chùa Ba Vàng: “Cũng không thể trách được Phật tử vì họ không biết các quy định của Đức Phật như thế nào. Còn với những người có nghiên cứu về giới luật Phật giáo sẽ thấy rằng, việc cúng dường như vậy là không phù hợp”.

Chùa Ba Vàng còn tổ chức hoạt động trưng bày, chiêm bái hiện vật được cho là "xá lợi tóc Đức Phật". Có người lại cho rằng không nên bêu xấu các “ma tăng”, vì họ làm thì họ chịu, mình nói ra, không những sẽ gây cái nhìn xấu về đạo Phật, mà còn tạo “khẩu nghiệp” cho chính bản thân.

 

Sư trụ trì chùa Ba Vàng: Thích Trúc Thái Minh

 

Đây chính là luận điệu của các “ma tăng”! Họ luôn đem “khẩu nghiệp” ra để dọa người khác, còn chính họ, thuyết những bài “pháp” hủy báng đạo Phật, khiến Phật tử ngày càng u mê… thì họ không sợ “khẩu nghiệp” chăng?

Sự phê phán giữa các nhân vật trong giáo hội đã tiến sang một giai đoạn mới khi có sự xuất hiện của hành giả Minh Tuệ, xuất gia vào năm 2015, tại một cơ sở Phật giáo, nhưng rời đi sau một thời gian ngắn.

Từ năm 2018 ông thực hành 13 hạnh đầu đà của Phật giáo Nguyên thủy, bộ hành khất thực khắp đất nước trong nhiều năm. Hành trình đi bộ năm 2024 của ông gây nên sự chú ý với đông đảo quần chúng, thu hút hàng nghìn phật tử mến mộ.

Tháng 6/2024, Thích Minh Tuệ buộc phải ngừng bộ hành và ẩn tu. Từ tháng 12/2024, Thích Minh Tuệ cùng đoàn các khất sĩ tu hạnh đầu đà ra nước ngoài tiếp tục bộ hành và khất thực lần lượt ở các nước Lào, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Singapore, Sri Lanka và hiện tại là Ấn Độ.

Tính chính danh của ông cũng là đề tài được bàn tán rộng rãi. “Giáo hội Phật giáo Việt Nam”, không coi ông là "tu sĩ Phật giáo" do ông không tu tập ở bất kỳ cơ sở tôn giáo nào của giáo hội. Tuy nhiên “Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất” lai công nhận điều này và khen ngợi ông hội đủ phẩm hạnh cho danh xưng đó.

Mang hình ảnh một người vô danh tự nhận đang "tập học" theo lời Phật dạy với đầu trần, chân đất đi bộ khắp nơi, Thích Minh Tuệ đã trở thành một hiện tượng mạng, đồng thời truyền cảm hứng cho đức tu khổ hạnh từ bỏ vật chất khiến hàng nghìn người từ khắp nơi đến đảnh lễ ông.

Thượng tọa Thích Chân Quang, trụ trì chùa Thiền Tôn Phật Quang ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cũng đả từng chỉ trích gay gắt Thích Minh Tuệ khi gọi vị tu sĩ là "thằng ba trợn". Riêng về Thích Nhật Từ, ông còn ký tên trên một văn bản gửi ra Phật giáo thế giới xác định sư Minh Tuệ “tu giả” vì không được Giáo hội công nhận.

 

Sư Thích MinhTuệ

 

Qua sự kiện này người ta thấy ngay cả những người tu hành vẫn chưa vượt khỏi vòng “Tham – Sân – Si” thường thấy ở người trần tục. Thế cho nên, Đạo Phật nước ta vẫn luôn mắc phải những pháp nạn lẽ ra không đáng xảy ra!

 

***
--> Read more..

Popular posts