Thứ Tư, 26 tháng 5, 2021

Ca dao về tình yêu

Ca dao, người xưa còn gọi là “phong dao”, xuất hiện rất nhiều trong ngôn ngữ dân gian của người Việt.

Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc (1890-1942), nhà giáo và cũng là một học giả uy tín, đã có một công trình sưu tầm lấy nhan đề là “Tục ngữ - Phong giao” được xuất bản năm 1928 tại Hà Nội.

Trong quyển sách đã dẫn có đến 6.500 câu tục ngữ và hơn 850 ca dao, được sắp xếp một cách khoa học theo mẫu tự. Vì khuôn khổ hạn hẹp của bài viết này, chúng tôi chỉ  xin trích ra một mảng nhỏ trong kho tàng ca dao của học giả Nguyễn Văn Ngọc với chủ đề về tình yêu trai gái.

 



Tác giả là người miền Bắc nên những câu ca dao này được viết theo lối chính tả của người đàng ngoài, có những từ ngữ đôi chỗ rất khác với miền Nam. Chẳng hạn như “giời” thay vì “trời”, “trai” được viết thành “giai”, “giăng”“trăng”, “lời nói” được đổi thành “nhời nói"“bã trầu” biến thành “bã giầu”.

Ví dụ như trong câu ca dao định nghĩa hai chữ Yêu và Ghét, người miền Nam mới đọc câu đầu sẽ phải “khựng” lại vì gặp chữ “bã giầu” nhưng rồi cũng hiểu ra, “giầu” đây là “trầu không” mà các cụ ngày xưa thường ăn. Vế thứ hai là “cau” càng làm rõ nghĩa… trầu cau:

“Yêu nhau thời ném bã giầu,

Ghét nhau thời ném vỡ đầu nhau ra.

Yêu nhau cau bẩy bổ ba,

Ghét nhau cau bẩy bổ ra làm mười”.


Đoạn ca dao dưới đây rất nhiều người biết về cách dậy con, cả trai lẫn gái. Dĩ nhiên là cách hành xử theo nề nếp cổ xưa chứ không như ngày nay:

“Con ơi muốn nên thân người,

Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha.

Gái thời giữ việc trong nhà,

Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa.

Giai thời đọc sách, ngâm thơ,

Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa.

Mai sau nối được nghiệp nhà,

Trước là đẹp mặt, sau là ấm thân”.

 

Rất ít người hiểu được những thủ tục nhiêu khê khi người con gái rời gia đình để xuất giá theo chồng. Trước bàn thờ tổ tiên có những nghi thức cổ truyền trong việc quỳ lậy mà ngày nay hầu như mọi gia đình đều bỏ qua:

“Lạy cha ba la lạy, một quì,

Lạy mẹ bốn lạy, con đi lấy chồng.

Mẹ sắm cho con cái yếm nhất phẩm hồng.

Trước là đáp nghĩa cùng chồng,

Sau là họ mạc cũng không chê cười”.

Con ơi! Nhớ bấy nhiêu nhời.”

 

Và đây là tiêu chuẩn mẫu mực về một người vợ… trong mơ:

“Những người thắt đáy lưng ong,

Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con.

Những người béo trục, béo tròn,

Ăn vụng như chớp, đánh con cả ngày”.

 

Chuyện kén chồng cũng cả là một vấn đề nan giải nên mới có những vần thơ vui nhưng “cảnh báo” người con gái:

“Đi đâu mà chẳng lấy chồng?

Người ta lấy hết, chổng mông mà gào.

Gào rằng: Đất hỡi giời ơi!

Sao không thí bỏ cho tôi chút chồng?

Ông giời ngoảnh lại mà trông:

Mày hay kén chọn, ông không cho mày”.

 

Tuy nhiên, cũng cần tránh những cảnh “làm lẽ” trong một xã hội đa thê của ngày xưa. Người vợ lẽ thực ra chỉ là một danh từ thậm xưng… kỳ thật chỉ là “ôsin” trong gia đình chồng:

“Lấy chồng làm lẽ khổ thay,

Đi cấy, đi cầy chị chẳng kể công.

Đến tối chị giữ lấy chồng,

Chị cho manh chiếu nằm không nhà ngoài.

Đêm đêm gọi những: Bớ Hai,

Giở dậy nấu cám, thái khoai, đâm bèo.”

 

Ngược lại, cũng cần tránh những cuộc “tảo hôn” như trường hợp sau đây:

“Lấy chồng từ thuở mười lăm,

Chồng chê tôi bé, chẳng nằm cùng tôi.

Đến năm mười tám, đôi mươi,

Tôi nằm dưới đất, chồng lôi lên giường,

Một rằng thương, hai rằng thương,

Có bốn chân giường gãy một còn ba,

Ai về nhắn nhủ mẹ cha,

Chồng tôi nay đã giao hòa cùng tôi”.


Xã hội ngày xưa ngoài việc người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ… nhưng ở một số trường hợp đàn bà cũng có thể có nhiều chồng như hoàn cảnh của người phụ nữ dưới đây:

“Chữ Trinh đáng giá nghìn vàng,

Từ anh chồng cũ đến chàng là năm.

Còn như yêu vụng, dấu thầm,

Họp chợ trên bụng đến trăm con người”.

 

Không phải chỉ năm mà lại còn lên đến chín đời chồng như trường hợp này:

“Chính chuyên, lấy được chín chồng,

Vê viên, bỏ lọ, gánh gồng đi chơi.

Không ngờ quang đứt, lọ rơi.

Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng”.

 

Đã cũng có không ít những chuyện các cô gái xứ Đông hay xứ Đoài bị bêu riếu vì các hành vi đáng lên án:

“Cha đời con gái xứ Đông!

Ăn trộm tiền chồng mua khố cho trai.

Cha đời con gái xứ Đoài!

Ăn trộm tiền mẹ mua khoai cho chồng”.

 

Cuộc sống hàng ngày của người phụ nữ thời phong kiến cũng tựa như một bức tranh đa màu, đa sắc. Có những chuyện vui nhưng cũng có không ít chuyện buồn:

“Chị em rủ nhau tắm đầm,

Của em thời trắng, chị thâm thế này?

Chị thâm bởi tại anh mày,

Khi xưa chị cũng hạt chay đỏ lòm”.

 

Ca dao cũng có những câu rất “tục” để “tả chân” về người phụ nữ, chẳng hạn như:

“Cô kia cắt cỏ ven sông,

Cái váy thì cọc, cái lông thì dài.

Thuyền chài nò vẻ quan hai,

Thưa rằng: Chẳng bán để mà quét sân”.

 

Chuyển sang đối tượng đàn ông trong xã hội xưa cũng có những lời nặng nhẹ. Và dĩ nhiên những lời đó xuất phát từ… đàn bà:

“Đàn ông năm, bảy đàn ông,

Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha.

Đàn bà năm, bảy đàn bà,

Đem bỏ ra chợ, kiến tha nó về”.


Đôi khi cũng có những nhận xét một cách vô tư và hài hước về cả hai phía:

“Đàn ông kia hỡi đàn ông!

Nửa đêm giở dậy cắm chông đàn bà.

Đàn bà kia hỡi đàn bà!

Nửa đêm giở dậy rút ruột già đàn ông”.

 

Cuộc sống vợ chồng cũng… khá rắc rối:

“Đương khi bếp tắt cơm sôi,

Con ngồi khóc đói, chồng đòi tòm tem.

Bây giờ bếp đã cháy lên,

Cơm đà sắp chín, tòm tem thì tòm”.

 

Gặp ông chồng yêu vợ thì bao thói xấu của vợ biến thành… điều tốt:

“Lỗ mũi em thì tám ghánh lông,

Chồng yêu, chồng bảo tơ hồng giời cho.

Đêm nằm thì ngày o o,

Chồng yêu, chồng bảo ngáy cho vui nhà.

Đi chợ, thì hay ăn quà,

Chồng yêu, chồng bảo về nhà đỡ cơm.

Trên đầu những rác cùng rơm,

Chồng yêu, chồng bảo hoa thơm rắc đầu”.

 

Ghen tuông là “bản tình trời sinh” dành cho phụ nữ vì người ta thường nói “Ớt nào là ớt chẳng cay / Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng”! Nhưng trong ca dao ngoài hai câu trên còn có hai câu tiếp mà đa số chúng ta không biết:

“Vôi nào là vôi chẳng nồng,      

Gái nào là gái có chồng chẳng ghen”.

 

Cũng tương tự như trường hợp trên, người ta chỉ biết hai câu “Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vân / Nay anh học gần, mai anh học xa”. Còn hai câu kế tiếp, chắc chắn ít người biết đến công lao của người vợ:

“Tiền gạo thì của mẹ cha,

Cái nghiên, cái bút thật là của em”.

 

Cũng vẫn bắt đầu bằng chuyện quả cau, ca dao được nối tiếp bằng những kể lể công trạng “âm thầm” của người vợ có chồng là học trò:

“Anh lấy em từ thuở mười ba,

Đến năm mười tám, thiếp đà năm con.

Ra đường người nghĩ còn son,

Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.


“Một nửa sự thật” về cuộc sống vợ chồng trong “thâm cung bí sử” được diễn tả qua đoạn ca dao dưới đây. Tương phản hẳn với một nửa kia trước mắt mọi người cứ lầm tưởng là họ có một cuộc sống ngọt ngào, hạnh phúc:

“Ra đường bà nọ, bà kia,

Về nhà không khỏi cái nia, cái sàng.

Ra đường võng giá nghênh ngang,

Về nhà hỏi vợ: Cám rang đâu mày?

Cám rang tôi để cối xay,

Hễ chó ăn mất, thì “Mày với Ông”.

 

Người phụ nữ Việt Nam vốn có tính chiều chồng, nhiều khi chiều một cách thái quá:

“Chồng giận thì vợ làm lành,

Miệng cười chúm chím: Thưa anh giận gì?

Thưa anh, anh giận em chi,

Muốn lấy vợ bé em thì lấy cho”.

 

Thời xưa cũng như thời nay, trước khi nên duyên vợ chồng là thời kỳ hẹn hò, khó có thể nào quên:

“Nhớ ai con mắt lim dim,

Chân đi thất thểu như chim tha mồi.

Nhớ ai hết đứng lại ngồi,

Ngày đêm tơ tưởng một người tình nhân”.

 

Nhớ đến phát khóc, nhớ đến ngẩn ngơ như ngồi trên đống lửa, trên than hồng:

“Nhớ ai em những khóc thầm,

Hai hàng nước mắt dầm dầm như mưa.

Nhớ ai ngơ ngẩn ngẩn ngơ,

Nhớ ai ai nhớ, bây giờ nhớ ai.

Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi,

Như đun đống lửa, như ngồi đống than”.

 

Chờ mong nhau đến độ:

“Ngày ngày em đứng em trông,

Trông non, non ngất, trông sông, sông dài.

Trông mây, mây kéo ngang giời,

Trông giăng, giăng khuyết, trông người, người xa”.

 

Họ còn nhớ cả những giây phút thầm kín bên nhau qua những câu thơ… vô cùng tả chân:

“Vú em chum chũm chũm cau,

Cho anh bóp cái, có đau anh đền.

Vú em chỉ đáng một tiền,

Cho anh bóp cái, anh đền quan năm”.

 


Hỷ-Nộ-Ái-Ố trong tình yêu của ngày xưa là vậy đó!

 *** 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

:) :( :)) :(( =))

Popular posts