Thứ Tư, 30 tháng 1, 2013

Những cái tên bình dị về Núi & Đèo (4)

(Tiếp theo)


Đi từ đồng bằng lên cao nguyên bằng đường bộ chúng ta sẽ phải qua những đoạn đường đèo xuyên núi. Việt Nam có khoảng hơn 30 đường đèo lớn nhỏ cũng như dài ngắn. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến những cái tên bình dị nhưng cũng kỳ lạ của núi và đèo mà tôi đã từng nghe đến hoặc có dịp đi qua trong những chuyến cross-country xuyên Việt vào cuối thập niên 90.

Rời xứ võ Bình Định của “anh hùng áo vải” Quang Trung chúng tôi đến Quảng Ngãi, “quê mía, xứ đường”. Người ta còn đặt cho Quảng Ngãi biệt danh vùng đất “núi Ấn, sông Trà” với ngọn núi Thiên Ấn được vua Tự Đức phong tặng là “danh sơn” và sông Trà Khúc được xếp vào loại “đại xuyên”. Quảng Ngãi còn có 150 km bờ biển, kéo dài từ An Tân (chứ không phải Tân An ở miền Nam) đến Sa Huỳnh, với nhiều bãi biển đẹp như Mỹ Khê, Khe Hai, Minh Tân…

Trong chiến tranh Việt Nam, thôn Mỹ Lai, làng Sơn Mỹ thuộc huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi được cả thế giới biết đến qua phương tiện truyền thông với những cái tên như My Lai Massacre, Son My Massacre hoặc Pinkville theo tên gọi của quân đội Hoa Kỳ. Địa danh này đã đi vào những trang lịch sử u buồn của Quảng Ngãi với 504 thường dân, hầu hết là đàn bà và trẻ em, đã bị quân đội Hoa Kỳ tàn sát vào sáng ngày 16/3/1969 [1].

Vụ thảm sát tại Sơn Mỹ (Mỹ Lai)

Sinh viên Mỹ rất háo hức trên đường đến khu chứng tích Sơn Mỹ. Tuy nhiên, sau chuyến thăm nơi này, tôi thấy những người thuộc thế hệ trẻ bỗng trở nên ít nói hơn so với trước đó. Lý do tại sao thì cũng dễ hiểu nhưng điều đáng ngạc nhiên là một chuyện xảy ra từ hơn 30 năm về trước đã có tác động mạnh đến những suy nghĩ về chiến tranh và hòa bình của thế hệ trẻ.

Những người đã từng tham chiến thuộc thế hệ già nua như tôi, như những người anh em phía bên kia chiến tuyến cũng như những người Mỹ thuộc lớp “baby-boomers” chiến đấu tại Việt Nam có thể nhìn chiến tranh dưới một khía cạnh trần trụi, khắc nghiệt: giết người hoặc bị người giết. Tất cả chúng tôi hầu như đều chấp nhận những thảm kịch của chiến tranh, coi đó như một điều tất yếu phải xảy ra, không với bên này thì cũng với bên kia. Nhưng, đối với thế hệ trẻ, cả Việt lẫn Mỹ, họ đều có những suy nghĩ khác hẳn.

Dọc hai bên lối đi vào Khu chứng tích Sơn Mỹ là những bia đá ghi lại địa điểm những ngôi nhà của các gia đình đã bị tàn sát chen lẫn vết tích của các hầm tránh đạn và những bức tượng nhỏ mang hình ảnh của nạn nhân. Gốc cây gòn, nơi một số dân làng bị giết vẫn còn đó và phía sau tượng đài là một bức bích họa đầy màu sắc thể hiện hình ảnh của vụ thảm sát. Phía bên trái lối đi là tòa nhà trưng bày chứng tích gồm hình ảnh và hiện vật còn sót lại của làng Sơn Mỹ.

Khu chứng tích Sơn Mỹ thu hút rất nhiều khách tham quan người Mỹ thuộc mọi thế hệ, đặc biệt là những cựu binh tham gia chiến tranh Việt Nam. Họ trở lại đây với nhiều tâm trạng khác nhau, có thể đó chỉ đơn thần là một chuyến du lịch và cũng có thể là một cuộc hành hương tìm về quá khứ. Hugh Thomson, viên chuẩn úy phi công lái chiếc trực thăng trinh sát đã từng chứng kiến cảnh tàn sát, cũng đã trở lại Sơn Mỹ để thực hiện phim Tiếng vĩ cầm tại Mỹ Lai nhân kỷ niệm 30 năm vụ thảm sát.


Tượng đài kỷ niệm tại Sơn Mỹ (Mỹ Lai)

Từ Quảng Ngãi chúng tôi đến Quảng Nam, nơi có nhiều ngọn cao trên 2.000 m như núi Lum Heo (2.045 m), núi Tion (2.032 m), núi Gole - Lang (1.855 m). Giữa Quảng Ngãi và Kon Tum còn có ngọn Ngọc Linh cao 2.598 m, đây cũng là đỉnh cao nhất của dãy Trường Sơn.

Ngoài ra, vùng ven biển phía đông sông Trường Giang là dải cồn cát chạy dài từ Điện Ngọc, Điện Bàn đến Tam Quan, Núi Thành. Bề mặt địa hình Quảng Nam bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi khá phát triển gồm sông Thu Bồn, sông Tam Kỳ, sông Trường Giang và sông Cổ Cò.

Cảnh đẹp ít người biết đến trên sông Cổ Cò, Hội An

Sau năm 1975, hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín và thành phố Đà Nẵng được sáp nhập thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng nhưng đến năm 1997, hai tỉnh này lại được chia thành các đơn vị hành chính độc lập gồm thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Tỉnh có 14 huyện với những cái tên khá ngộ nghĩnh như Giằng (nay là huyện Nam Giang), Hiên (nay là Đông Giang và Tây Giang) và 2 thị xã là Tam Kỳ và Hội An (nay là thành phố Hội An).

Tin vui đến với Hội An vào những ngày cuối năm 1999 khi UNESCO đã chính thức công nhận phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn là Di sản Văn hóa Thế giới. Đây cũng là miền tự hào của người dân Quảng Nam vì cả hai di sản đều thuộc địa phận tỉnh.

Thật đáng tiếc, chúng tôi không có đủ thì giờ thăm thánh địa Mỹ Sơn nằm cách thành phố Đà Nẵng gần 70 km. Một phần vì khoảng cách khá xa hơn nữa sinh viên Mỹ đã có dịp đến nhiều ngôi tháp của người Chàm nằm trên Quốc lộ 1 A dọc theo duyên hải miền Trung.

Ngành du lịch Hội An gần đây đã thực hiện những bước đột phá ngọan mục với việc phát hành loại vé mang tên Một lần thăm đô thị cổ Hội An. Khách du lịch có thể tùy ý lựa chọn 5 điểm trong đó giới thiệu Bảo tàng Lịch sử - Văn hóa, Bảo tàng Gốm sứ Mậu dịch và Bảo tàng Văn hóa Sa Hùynh.

Khách cũng có thể chọn 1 trong 3 hội quán cổ của người Quảng Đông, Triều Châu hoặc Phúc Kiến và 1 trong 4 ngôi nhà cổ gồm Nhà thờ tộc Trần, Phùng Hưng, Quân Thắng và Tấn Ký. Điểm du lịch thứ tư có thể là sự lựa chọn giữa Cầu Nhật Bản và miếu Quan Công; cuối cùng là sự lựa chọn một trong những di tích còn lại trong vé.

Tại mỗi điểm, khách sẽ được nhân viên hướng dẫn tận tình với thời gian không hạn chế. Tuy nhiên, Hội An cần xét lại sự chênh lệch về giá vé giữ khách nội địa và khách quốc tế. Trong khi khách trong nước chỉ trả 10.000 đồng thì khách nước ngoài phải trả đến 50.000, một số tiền tương đối lớn đối với những sinh viên của đoàn chúng tôi hãy còn phụ thuộc vào gia đình.

Rõ ràng là Hội An mang lại cho khách du lịch sự thoải mái rất khó tìm tại những thành phố du lịch khác trên đất Việt. Tại đây không có những ‘đội quân’ bán hàng rong kiên nhẫn bám theo khách như ‘đỉa đói’. Người Hội An rất hiếu khách. Một anh xe ôm đã tận tình đưa tôi đi khắp các điểm tham quan, anh giải thích cặn kẽ từng chi tiết, nhớ từng niên biểu như một hướng dẫn viên du lịch chuyên nghiệp.

Vốn kiến thức của người chạy xe ôm về Hội An rất phong phú nhưng điều quan trọng hơn cả là niềm tự hào của anh khi được nói về phố cổ như của chính mình. Phải chăng truyền thống tiếp xúc với phần còn lại của thế giới từ thế kỷ thứ 16 đã tạo cho người Hội An nét đặc thù trong giao tiếp?

Đặc sản của phố cổ Hội An là món cao lầu. Một tô cao lầu gồm những sợi mỳ màu vàng, bên trên là tôm, thịt heo, các loại rau sống và rất ít nước dùng, từa tựa như mì quảng. Sợi mỳ màu vàng là do được trộn với tro của một loại cây ở địa phương. Nhiều người cho rằng món này của người Hoa, nhưng Hoa kiều ở đây lại không công nhận nó. Còn người Nhật thì cho rằng nó giống mỳ udon của họ nhưng khác về hương vị và cách chế biến.

Tinh túy của món cao lầu là sợi mì, thường được chế biến rất công phu. Đầu tiên, gạo thơm đem ngâm vào nước tro, mà phải là tro nấu củi lấy ở tận Cù lao Chàm, hòn đảo cách Hội An 16 km, mới tạo ra được sợi mì có độ giòn, dẻo và khô. Sau đó lọc kỹ, xay thành bột; nước xay gạo phải là nước ở giếng Bá Lễ do người Chàm đào cách đây cả ngàn năm, mới được nước ngọt, không bị phèn và mát lạnh. Cao lầu quả là… cầu kỳ.

Cao lầu với thịt và da heo chiên

Ẩm thực Quảng Nam cũng có nét cá biệt đáng ghi lại như ở Tam Kỳ có món cơm gà nổi tiếng. Chỉ trên đường Phan Chu Trinh – Phan Bội Châu tôi đã thấy có tới mấy quán như Cơm gà bà Luận, Cơm gà Tam Duyên, Cơm gà Hải Phương, Cơm gà Đặc sản bà Huế…

Riêng bà Luận còn có một hệ thống gồm 4 nhà hàng tại Sài Gòn lúc nào cũng đông khách sành ăn. Có lẽ bí quyết của món này phải là gà ta nuôi tại Tam Kỳ và cơm được nấu bằng nước luộc gà, tất cả đều đượm một màu vàng ươm bắt mắt. 

Cơm gà Tam Kỳ

Rời Đà Nẵng chúng tôi chuẩn bị vượt qua một ngọn đèo được mệnh danh là “Đệ nhất Hùng quan” dài 20 km xuyên qua dãy Trường Sơn. Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông trong một lần vi hành đã dừng lại trên đỉnh đèo để ngắm cảnh làm thơ. Trước cảnh hùng vĩ của trời mây và biển cả, nhà vua đã phong cho ngọn đèo này danh hiệu “Đệ nhất hùng quan”. Ngọn đèo này gần như quanh năm sương mù, mây xuống rất thấp và có những đoạn trông ra biển từ độ cao 500 mét.

Đó là đèo Hải Vân, một cái tên kết hợp giữa biển và mây. Đèo Hải Vân cũng là ranh giới tự nhiên giữa hai thành phố Đà Nẵng và Huế. Hải Vân (còn gọi là Ải Vân) đã đi vào ca dao dân gian với âm điệu trầm buồn:

Chiều chiều mây phủ Ải Vân.
Chim kêu ghềnh đá gẫm thân lại buồn.

Đèo Hải Vân

Quốc lộ 1A trước đây được gọi là Đường Cái Quan, nơi băng qua đèo Hải Vân rất ít người dám qua lại vì hiểm trở, thú dữ và cướp bóc... Vào thời Pháp thuộc, con đường này được sửa sang thông thoáng hơn, đồng thời người Pháp còn cho xây dựng tuyến đường sắt và đường hầm song song với đường đèo. Cho đến nay, đường đèo Hải Vân vẫn là một nỗi ám ảnh đối với cả người lái xe và hành khách trên xe:

Đi bộ thì sợ Hải Vân
Đi thủy thì sợ sóng thần Hang Dơi

Đèo Hải Vân mọi người đều biết, còn Hang Dơi thì nằm ở chân núi kề biển về phía Lăng Cô, ở đây thường có sóng lớn làm đắm thuyền. Đó là hai nỗi sợ của những người phải di chuyển trên khu vực này.

Năm 1695, một thương nhân người Anh tên Thomas Bowyear đã ghi lại: “Ngày 4.10.1695, khởi hành từ Faifo [Hội An], đi dọc theo bờ biển và trên các núi cao, dù có con đường ngắn hơn nhưng bị cấm, nên tôi không thể đi được...” [2]. Con đường bị cấm mà Bowyear nói đến có lẽ là đoạn từ Lăng Cô ra Huế bằng cách vượt qua các đèo Phú Gia, Cầu Hai và Đá Bạc. 

Một khúc cua gắt trên đèo Hải Vân

Vùng đất Hải Vân xưa thuộc hai châu Ô và Rí của vương quốc Chàm. Vua Chế Mân hiến tặng vua Trần Nhân Tông làm sính lễ cầu hôn công chúa Huyền Trân. Câu chuyện về Huyền Trân đã trở thành một đề tài trong thi ca, nghệ thuật. Có lẽ vào thời đó, người Việt coi người Chàm là dân tộc thấp kém nên đã có câu:

Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo

Điểm đặc biệt chỉ có thể thấy ở Hải Vân là từ trên đỉnh đèo có thể quan sát cả hai phía vào những ngày đẹp trời. Phía bắc là đồi núi trập trùng phủ màu mây trắng, xa xa là đầm Lập An, vịnh Lăng Cô thuộc địa phận Thừa Thiên – Huế. Phía nam, sóng biển vỗ quanh triền núi, xa hơn nữa là toàn cảnh thành phố Đà Nẵng bên bờ sông Hàn.  

Như đã nói, Hải Vân còn được gọi là Ải Vân. Ngày nay, trên đỉnh đèo Hải Vân vẫn còn dấu vết của một cửa ải, gọi là “Hải Vân Quan”, xây từ đời Trần, và được trùng tu vào thời Nguyễn. Cửa trông về phủ Thừa Thiên đề ba chữ “Hải Vân Quan”, cửa trông xuống Quảng Nam đề “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” bằng chữ Hán.

Điểm dừng chân trên đỉnh đèo Hải Vân

Xe của chúng tôi dừng lại rất lâu tại đỉnh đèo. Một kỷ niệm đáng nhớ nhất trên đỉnh Hải Vân là cảnh đoàn sinh viên Mỹ họp nhau trước cửa ải để cất tiếng hát Lên đàng

Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng
Kiếm nguồn tươi sáng
Ta nguyện đồng lòng điểm tô non sông
Từ nay ra sức anh tài

Tiếng hát vang trên nền thành quách cổ, những lời ca còn ngọng nghịu dù đã tập đi tập lại nhiều lần nay được dịp vang vọng trên đỉnh đèo Hải Vân quanh năm mây phủ. Tôi nghĩ, đó là một trong những giây phút ấn tượng nhất của chuyến cross-country, trong số đó có 2 sinh viên người Mỹ gốc Việt.

Đó là vào thời điểm cuối thập niên 90. Giờ thì lớp sinh viên đó đều đã trưởng thành, có người đã trở thành tiến sĩ, người là doanh nhân thành đạt, thậm chí có người đã trở lại Việt Nam để kinh doanh và sinh sống [2]. Tôi nghĩ, không ít thì nhiều, những tháng ngắn ngủi trên đất Việt đã để lại cho họ nhiều cảm xúc buồn vui nhưng quan trọng hơn cả là tình người không biên giới. 

Đoàn sinh viên trước cửa Ải Vân

Ở miền Trung, kể từ khi đường hầm Hải Vân đưa vào hoạt động đã giảm hẳn tai nạn giao thông trên đèo và biến đường đèo này thành một địa điểm du lịch. Người ta lại bắt đầu chú ý đến hai đường đèo đi qua tỉnh Thừa Thiên - Huế, đó là Phước Tượng và Phú Gia.

Hầu như tài xế nào khi đi qua đây đều “ngán” với độ dốc và cua tay áo của các đèo này. Đã có những tài xế do không quen địa hình, do bất cẩn, phản ứng không kịp khi gặp chướng ngại vật và phải trả giá bằng những vụ lật xe. Khi lên đèo, những chiếc xe chở nặng nếu tụt dốc có thể rơi xuống vực sâu khoảng 30 mét trên đèo Phú Gia.

Đèo Phú Gia

Đèo Phước Tượng cũng là nỗi ám ảnh đối với người điều khiển xe tải, xe container và xe chở khách. Điều đáng nói các vụ tai nạn xảy ra trên đèo đều ở tại những khúc cua gắt dù ngành giao thông đã xây dựng hệ thống lan can bảo vệ bằng bê tông nhưng móng lan can thiếu kiên cố nên dễ dàng bị ôtô húc đổ khi xảy ra va chạm.

Tai nạn trên đèo Phước Tượng

Rời cố đô Huế với sông Hương, núi Ngự, chúng tôi tiến dần ra phía Bắc, vẫn theo Quốc lộ 1A, để qua một ngọn đèo nổi tiếng qua thi ca từ ngày tôi còn mài đũng quần trên ghế nhà trường. Từ vua Lê Thánh Tông, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Ngô Thì Nhậm cho đến Bà huyện Thanh Quan đều có những vần thơ ca tụng ngọn đèo:

Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà.

Thưở học trò hầu như ai cũng thuộc bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà huyện Thanh Quan. Khi đó còn ngồi trong 4 bức tường của lớp học tôi đã để trí tưởng tượng được đến vùng đất xa xôi Quảng Bình – Hà Tĩnh để chiêm ngưỡng bức tranh thủy mạc mà bà huyện đã vẽ cảnh Đèo Ngang. Thật tình mà nói, lần đầu tiên qua Đèo Ngang cảm giác giữa mộng và thực khác nhau quá xa…

Đèo Ngang cũng chỉ như các ngọn đèo khác với độ dài 6 km, cao khoảng 250 m, xuyên qua dãy Hoành Sơn là ranh giới giữa huyện Quảng Trạch thuộc tỉnh Quảng Bình ở phía Nam và huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh, phía Bắc. Thời nay làm gì còn có cảnh những chú tiều phu lom khom đốn củi dưới núi, bên bờ sông Gianh cũng không phải chỉ là mấy nhà nằm lác đác quanh chợ.

Đèo Ngang xưa kia đây là ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành, đến thời Pháp thuộc mang tên Porte d'Annam trên bản đồ. Với người xưa, đây là vùng đất hiểm yếu, từng được mệnh danh là “bức tường thành”, là “phên dậu” phía Nam của nước Đại Việt. Ngày nay, trên đỉnh đèo Ngang, cửa quan lớn mang tên “Hoành Sơn quan” (xây dựng dưới triều vua Minh Mạng) vẫn còn nguyên vẹn cùng hai bức tường đá lớn chạy theo hai hướng: vào núi và xuống biển.   

Năm 1833, vua Minh Mạng cho xây dựng “Hoành Sơn Quan” ở đỉnh Đèo Ngang và cho khắc hình vào Cửu Đỉnh (Huyền Đỉnh). Hoành Sơn Quan cao hơn 4m, hai bên có thành dài hơn 30 m, trên cửa thành đắp nổi ba chữ “Hoành Sơn Quan”. Hai phía Bắc - Nam của Hoành Sơn Quan có đường dẫn là các bực thang. Hoành Sơn Quan vẫn còn, tuy không nguyên vẹn nhưng vẫn sừng sững, uy nghi, phong trần nơi đầu núi hướng ra biển, là chứng tích của một thời kỳ lịch sử.

Đứng trên đỉnh đèo Ngang nhìn về phía Đông ta sẽ thấy màu xanh bao la của biển. Xa xa là Mũi Ròn, Vũng Chùa, Hòn La và hàng loạt đảo nhỏ, lô nhô trên sóng nước. Nhìn về phía rừng là vách núi chênh vênh bên cạnh những đồi nhỏ nhấp nhô. Thấp thoáng sau hàng dừa, rặng phi lao là những mái ngói đỏ tươi, mái rạ sẫm màu của những làng chài, xóm núi.

Đèo Ngang

Gần đèo Ngang về phía Quảng Bình có đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Đây là một trong những di tích kiến trúc - nghệ thuật - tôn giáo thờ Mẫu tiêu biểu của Việt Nam. Ngoài ra, khu vực đèo Ngang còn có các bãi tắm như Hòn La, Quảng Đông, Cảnh Dương với những rừng dương xanh, bãi cát vàng. Các đảo ở ngoài khơi như đảo Hòn La, Hòn Vụng Chùa, Hòn Cỏ, Hòn Gió, đảo Yến ... là những thắng cảnh thu hút nhiều du khách

Đảo Hòn La và Đèo Ngang đã hợp thành một quần thể thắng cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ. Một bên là núi đèo nhấp nhô, một bên là những bãi biển sạch, đẹp trải dài  thoai thoải. Nơi đây đã được quy hoạch thành khu du lịch Đèo Ngang-Hòn La nằm ở phía Bắc Quảng Bình với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng.

Dưới chân đèo phía Bắc xưa kia là cửa biển Xích Mộ. Nay cửa biển đã bị bồi lấp. Ngược lên phía Tây, dưới chân đèo là một hồ nước trong xanh khá rộng. Ngược về phía Bắc đèo khoảng 3 km là Đèo Con, lại một cái tên bình dị với vỏn vẹn một chữ trong số những ngọn đèo mà chúng tôi đã đi qua như Đèo Chuối, Đèo Cả, Đèo Ngang…

Tuy thấp hơn đèo Ngang nhưng vị trí nơi đây thật đẹp vì nằm sát ngay bãi biển Đá Nhảy với một bãi đá lớn từ núi ăn lan ra biển, nhấp nhô với nhiều hình dạng khác nhau. Gần bãi tắm Đèo Con là đền thờ bà Bích Châu (hay còn gọi là đền thờ Bà Hải). Núi Cao Vọng, cùng với núi Ô Tôn, núi Bàn Độ, Vũng Áng đã tạo thành một quần thể du lịch Bắc đèo Ngang.

Đèo Con

(Còn tiếp)

***

Chú thích:

[1] Vụ thảm sát Mỹ Lai (Sơn Mỹ) là một trong những biến cố đẫm máu trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Vào ngày 16/3/1968 tại khu vực thôn Mỹ Lai thuộc làng Sơn Mỹ, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, các đơn vị lính Lục quân Hoa Kỳ đã thảm sát hàng loạt 504 dân thường, trong đó phần lớn là phụ nữ và trẻ em.

Vụ việc đã bị che giấu cho tới cuối năm 1969 và ngoại trừ một chỉ huy cấp trung đội thì không có bất cứ sĩ quan hay binh lính Hoa Kỳ nào bị kết tội sau vụ thảm sát này. Đại đội Charlie thuộc Tiểu đoàn số 1, Trung đoàn bộ binh số 20, Lữ đoàn bộ binh số 11, Sư đoàn bộ binh số 23, Lục quân Hoa Kỳ, tới Nam Việt Nam tháng 12/1967.

Đại đội Charlie đổ bộ vào làng Sơn Mỹ. Trung đội của thiếu úy William Calley bắt đầu xả súng vào các “địa điểm tình nghi có đối phương”, những người dân thường đầu tiên bị giết chết hoặc bị thương bởi các loạt đạn này. Sau đó lính Mỹ bắt đầu hủy diệt tất cả những gì chuyển động, người, gia súc, gia cầm...

Trong tiếng Anh, vụ thảm sát này có tên My Lai Massacre, Son My Massacre hoặc Pinkville, trong đó Pinkville là địa danh của quân đội Hoa Kỳ đặt cho khu vực Mỹ Lai. Sự kiện thảm khốc này đã gây sốc cho dư luận Mỹ, Việt Nam và thế giới, hâm nóng phong trào phản chiến và là một trong những nguyên nhân dẫn tới sự triệt thoái của quân đội Hoa Kỳ khỏi Việt Nam năm 1972.

Ngày 19/8/2009, trong bài phát biểu tại Kiwanis Club, Greater Columbus, lần đầu tiên William L. Calley công khai lên tiếng xin lỗi nạn nhân. Ông nói: “Không một ngày nào trôi qua mà tôi không cảm thấy hối hận vì những gì đã xảy ra ngày hôm đó tại Mỹ Lai”.

Ngày nay, tại Sơn Mỹ có một trung tâm tư liệu: Khu chứng tích Sơn Mỹ. Bên cạnh làng cũ là 2 tòa nhà: 1 trường học và 1 trung tâm văn hóa, được xây dựng và tài trợ bởi cựu quân nhân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam.

[2] Tham khảo: Mme Mir & L. Cadière, “Les européens qui ont vu le vieux Huế: Thomas Bowyear”, 1920, trang 194.

[3] Tham khảo về đoàn sinh viên Mỹ School for International Training (SIT) tại Việt Nam qua bài viết Chuyện một người Mỹ thích… mắm tôm trên Blogspot:


***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 8: Thời mở cửa)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

  1. Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
  2. Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
  3. Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
  4. Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
  5. Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
  6. Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
  7. Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
  8. Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
  9. Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ) 
Tác giả đang viết tiếp Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!    

1 nhận xét:

  1. Mới đây trên trang web http://hcm.24h.com.vn/ có đăng một bài bình luận với nhan đề "Chàng Tây "xuyên tạc" thơ Qua đèo Ngang" (Chủ nhật, 23/06/2013, 10:30 AM (GMT+7). Nguyên văn như sau:

    Trong chương trình “2! Idol” được phát sóng trên VTV9 vào Chủ nhật ngày 16/6 vừa qua, ở phần thử thách khả năng phân tích một bài thơ Việt Nam, nhân vật chính của chương trình – chàng ca sĩ người Mỹ Kyo York đã phân tích bài thơ “Qua đèo Ngang” với nhiều đoạn xuyên tạc sai lệch hoàn toàn với nội dung và cấu tứ của bài thơ, khiến nhiều khán giả thấy phản cảm.

    Chương trình “2! Idol” phát sóng vào 20h55 các ngày Chủ nhật hằng tuần trên sóng VTV9, với hình thức talk-show giải trí, khán giả tại trường quay và truyền hình giao lưu với một nhân vật nổi tiếng. Nhân vật chính trong chương trình phát sóng tối 16/6 là ca sĩ người Mỹ Kyo York. Anh chàng 28 tuổi này nổi danh là người nước ngoài hát khá thành thạo các ca khúc tiếng Việt, và thời gian gần đây gây tiếng vang trong cộng đồng mạng với MV ca khúc “Hello Hạ Long” (đặt lời mới trên nền nhạc “Bonjour Vietnam”).

    Đến phút thứ 11 của chương trình “2!Idol” giao lưu với Kyo, khán giả thích thú chờ đón Kyo phân tích bài thơ “Qua đèo Ngang” nổi tiếng của nữ sĩ Bà Huyện Thanh Quan. Tuy nhiên, với những gợi ý xuyên tạc từ cả hai MC của chương trình là Hoành Phi và Khởi My, cộng thêm việc không hiểu từ ngữ của các từ Hán Việt trong bài thơ, Kyo đã phân tích bài thơ một cách dung tục và hoàn toàn trái với nội dung vốn có.

    Sau khi đọc một lần khá rành rọt bài thơ, Kyo phân tích câu đầu tiên “Bước tới đèo Ngang bóng xế tà” là “bước tới một cái đèo tên là Ngang, bóng xế tà tức là bán bong bóng, giống với Chí Thiện…”. MC Hoành Phi của chương trình nói: “Thì ra bài thơ này viết về ca sĩ Chí Thiện?”… Ở những câu phân tích sau, Kyo tiếp tục xuyên tạc nội dung các từ ngữ và ghép lại thành một câu chuyện hư cấu, ví như hình ảnh “Lom khom dưới núi tiều vài chú”, qua gợi ý của MC Hoành Phi đã được Kyo hiểu thành “lom khom dưới núi một chú rể”. “Chú rể là Chí Thiện đi bán bong bóng dưới núi” – Khởi My nhanh nhảu đáp thêm.

    Hay như từ “lác đác” được Kyo diễn giải thành tỉnh Đăk Lăk, câu “Thương nhà mỏi miệng cái gia gia” thành “tức là một người nói nhiều nên mỏi miệng, còn “cái gia gia” giống như một người không rành tiếng Việt, ai nói gì thì trả lời dạ dạ”… Cuối cùng, Kyo nói về toàn bộ nội dung của bài thơ với một giọng hết sức cợt nhả: “Tức là bà Tám này đứng giữa một cái chợ có rất nhiều nhà, cô ta nhớ nhà dữ lắm và rất là đau lòng, xong rồi cô ta nghe quốc quốc, dừng chân đứng lại, stop here và cô ta khóc, một người đã bỏ cô ta gần chợ, gần sông, xong rồi cô ta buồn và muốn chết”.

    Rõ ràng, những phân tích trên đây của Kyo York và hai MC trong chương trình là hoàn toàn sai lệch với nội dung và cấu tứ của bài thơ “Qua đèo Ngang” của Bà Huyện Thanh Quan. Tuy sau đó, MC Hoành Phi có giải thích sơ lược về ý nghĩa thực của bài thơ, nhưng việc đưa một tác phẩm của một tác giả nổi tiếng, hơn nữa lại có trong sách giáo khoa để "giễu" là điều không nên.

    Là người đã theo dõi chương trình này, chị Trần Thúy Hạnh (36 tuổi, Cầu Giấy – Hà Nội) thẳng thắn chia sẻ: “Khi xem xong chương trình tôi khá sốc, tôi biết bài thơ “Qua đèo Ngang” được đưa vào giảng dạy trong bộ môn Văn học lớp 7, con trai tôi cũng đang học lớp 6, tôi sợ rằng nếu xem được chương trình này thì đến lúc học tác phẩm ở trường, cháu có thể hiểu đúng về nội dung và ý nghĩa của bài thơ, khi mà cháu đã có ấn tượng từ những lời bình xuyên tạc trong chương trình được phát trên sóng của đài truyền hình quốc gia”.

    “2!Idol” là một chương trình phát sóng trên kênh VTV9 của Đài Truyền hình Việt Nam. Chương trình này do “Công ty cổ phần tập đoàn Đại sứ trẻ” sản xuất, mang mục đích giải trí, với đối tượng khán giả là thanh thiếu niên. Thiết nghĩ, nội dung các chương trình giải trí như vậy phải được quản lý chặt chẽ hơn nữa.

    Trả lờiXóa

Popular posts