Thứ Tư, 5 tháng 3, 2025

Nước Mỹ nhìn từ thập niên 70s

Tôi đến nước Mỹ năm 1971, khi đó chiến tranh Việt Nam vẫn còn là đề tài chiến sự nóng hổi hằng ngày. Đó cũng là thời điểm mà người dân Mỹ, dù tiền thuế của họ đóng góp cho chiến tranh bên kia bờ Thái Bình Dương, vẫn khó mường tượng hai chữ Việt Nam nằm ở đâu trên bản đồ thế giới!

Tháng 10/1971 tôi đến Mỹ với cấp bậc Thiếu uý, Giảng viên Anh ngữ của Trường Sinh ngữ Quân đội, để theo học khoá đào tạo giảng viên căn bản “English Language Basic Course”. Đến Mỹ trong thời gian này là một kỷ niệm khó quên của một thanh niên vừa bước vào đời.

Cảm giác đầu tiên là sự bỡ ngỡ trước một xã hội được coi như là điển hình của một đất nước rộng lớn nhưng cũng đa dạng về tình người. Nước Mỹ, còn được gọi là Hiệp Chủng Quốc, cái tên hàm ý một quốc gia được kết hợp bởi sự đa dạng chủng tộc từ khắp mọi nơi trên trái đất, đủ mọi màu da, đủ mọi chính kiến.

Hồi đó, có mặt trên đất nước này với màu da vàng, tôi được người Mỹ “coi như là” người Tàu trên đường phố. Họ ngạc nhiên khi tôi tự giới thiệu là người Việt Nam vì khi đó chưa xuất hiện “boat people” như bây giờ. Những khi mặc quân phục với dòng chữ “Vietnam” trên vai trái nhiều người vẫn còn thắc mắc: Việt Nam ở đâu trên bản đồ thế giới?

Có lẽ chỉ những gia đình Mỹ bình thường có con em đi “quân dịch” và được gửi sang Việt Nam chiến đấu mới quan tâm đến đất nước này, nhưng quả thật nhiều người còn thắc mắc không biết đó là Bắc hay Nam Việt Nam nơi con cái họ đang phục vụ!

Trước khi đến “xứ cờ hoa”, tôi có quen với một giảng viên người Mỹ tên Tronvig, cùng dạy tại trường. Khi biết tôi sẽ du học, anh ngỏ ý muốn giới thiệu tôi với gia đình anh đang sống tại Walnut Creek, California. Anh còn cẩn thận ghi số điện thoại để khi đến căn cứ Travis tôi có thể liên lạc với họ qua “long distance call”.

Gia đình Tronvig thật hiếu khách, ngày đầu tiên họ đã đưa tôi đến chiêm ngưỡng chiếc cầu treo bắc ngang Vịnh San Francisco được khánh thành năm 1937. Tôi đã được thấy “Golden Gate Bridge” ở San Francisco, tượng trưng cho “Cổng Vàng” để chào đón những người bên kia bờ Thái Bình Dương đến “vùng đất hứa” của “American Dream”, một giấc mơ mà nhiều người ấp ủ.

Ngay từ ngày đầu tiên đặt chân đến Mỹ tôi đã cảm nhận một mối tình cảm đặc biệt về một vùng đất hứa hẹn nhiều khám phá đối với một thanh niên vừa bước vào đời từ một nền văn hoá còn khép kín ở quê nhà.

Tình cảm đó, nếu đem so sánh với những người Việt “tỵ nạn” trong đợt di dân ồ ạt sau ngày 30/4/1975 hoàn toàn khác biệt. Hồi đó, tôi chỉ là một “người khách” đến học hành rồi đi trong khi “boat people” chọn nước Mỹ là “quê hương thứ hai” trên bước đường “tạm dung”.

Trong khoá học, ngoài những chuyến “field trip” ngắn ngày, đi thăm những khu vực quanh Texas, chúng tôi còn có một chuyến dài ngày “về miền đông” như thủ đô Washington D.C., New York, Philadelphia… để tìm hiểu thêm về những thành phố lớn của Mỹ.

Cuối khoá, chúng tôi có 15 ngày để di chuyển từ Texas đến San Francisco chờ đáp máy bay về Việt Nam. Chúng tôi mua vé loại “open ticket” của hãng xe bus Geyhound theo cách thật tiết kiệm: “ban ngày ghé các thành phố dọc đường xem cho biết, ban đêm lên xe bus ngủ cho đỡ tiền thuê khách sạn”.

***

Năn 1973, Trường Sinh ngữ lại tiếp tục gửi một số giảng viên theo học khoá tu nghiệp “English Language Instructor, Refresher Course” trong 3 tháng. Lần đi Mỹ thứ hai tôi mang cấp bậc Trung uý, cũng vẫn trường xưa Defense Language Institute ở Căn cứ Lackland, San Antonio, Texas.

Đây cũng là dịp để hiểu thêm về nước Mỹ mà những người Việt định cư tại Mỹ sau này ít có cơ hội khám phá vì phải lo “cơm áo gạo tiền”, bù đầu với công việc kiếm sống. Xét cho cùng, một người du học có nhiều cơ hội tìm hiểu nước Mỹ nhiều hơn một di dân phải bù đầu vì “2 hay 3 jobs” để nuôi sống gia đình.

Chuyến đi 15 ngày sau khi mãn khoá tôi tìm đến YMCA (Young Men’s Christian Association - Hiệp hội Thanh niên Cơ Đốc), một tổ chức có hơn 58 triệu người đóng góp tại 125 chi hội cấp quốc gia. Tôi được giới thiệu đến gia đình Krumals sống tại Los Angeles.

Krumals là một gia đình điển hình người Mỹ với sự cởi mở và thân thiện. Gặp lúc nghe tin ở trên núi có tuyết họ không ngần ngại lái xe đến Angeles National Forest để chúng tôi “thấy tận mắt, rờ tận tay” những mảng tuyết lớn. Lần đầu trong đời, chúng tôi chơi trò ném tuyết một cách hồn nhiên như trẻ thơ.

Chúng tôi đã có dịp đến Disneyland nổi tiếng tại Mỹ, Universal Studios thăm phim trường hay đến San Francisco với xe điện cổ leo những con dốc thoai thoải giữa tiếng leng keng của tàu điện.

Hàng xóm của gia đình Krumals cũng rất thân thiện khi biết tin có những chàng trai từ Việt Nam đến trú ngụ. Họ còn tổ chức một chuyến du lịch vượt biên giới Mexico để đến thị trấn Tijuana “thăm dân cho biết sự tình”!

***

Năm 1994 tôi lại có dịp đến Mỹ với tư cách phóng viên của tờ Vietnam Investment Review. Nước Mỹ trong giai đoạn này đã tiếp nhận rất nhiều người Việt, đa số là những “người tị nạn” đã có một cuộc sống tương đối ổn định trên “xứ tạm dung”.

Nước Mỹ hồi đó cũng có nhiều thay đổi theo tình hình của thế giới. Ngày xưa, Mỹ được coi như một trong số những đất nước giàu có với tài nguyên phong phú, hoạt động kinh tế phát triển nên các chính phủ có “chính sách tương đối thoáng”, sẵn sàng hỗ trợ các nước nghèo ở châu Phi, châu Á.

Ngày nay Mỹ đang “siết chặt hầu bao”, cụ thể là đương kim Tổng thống Trump đã có kế hoạch đóng cửa Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), một cơ quan thể hiện sự hào phóng của nhân dân Mỹ cũng như góp phần thúc đẩy hành trình tiến tới bền vững của nước nhận tài trợ.

USAID hợp tác với chính phủ Việt Nam, từ khu vực tư nhân, các trường đại học và tổ chức nghiên cứu, đến các tổ chức trong nước và quốc tế cũng như các bên liên quan khác kể từ năm 1989 nhằm thúc đẩy các ưu tiên chung.

Trước khi vào quân đội năm 1968, tôi đã có một thời gian làm việc với đoàn MILPHAP (Military Provincial Hospital Assistance Program) tại Dân y viện Ban Mê Thuột do chương trình USAID tài trợ. Đây là đoàn gồm 3 bác sĩ và những y tá của quân đội Hoa Kỳ nhưng lại phục vụ ngành dân y tại thị xã.

Tuy thời gian làm việc tương đối ngắn nhưng tôi cũng nhận thấy rõ tôn chỉ hoạt động của USAID tại Việt Nam: giúp đỡ về y tế cho các cơ sở dân y trong tình trạng chiến tranh khốc liệt trên cả nước.

Thật đáng buồn khi chính quyền của Tổng thống Trump đang biến USAID, một tổ chức đã tồn tại hàng thập kỷ, chịu trách nhiệm thực hiện các chương trình viện trợ trên toàn thế giới, trở thành mục tiêu hàng đầu trong chiến dịch tinh giản chính phủ liên bang. Đó cũng có thể xem như một chính sách “hướng nội” thay vì “hướng ngoại” như trước đây.

Gần đây truyền thông thế giới đã có không ít bài viết bàn về khẩu hiệu “Make America Great Again” sau khi “cuộc chiến tranh lạnh” kết thúc. Một bài viết trên The Economist năm 2025 cho biết nước Mỹ hiện chiếm 26% GDP toàn cầu với một thị trường tài chính mạnh khiến các công ty khởi nghiệp dễ dàng huy động vốn một cách tốt hơn thay vì phải đi vay tiền mặt.

Điều mâu thuẫn lớn nhất là nước Mỹ luôn cho thế giới thấy họ là một… “mớ hỗn độn” do chính người dân Mỹ tạo ra. Gần như không bao giờ người Mỹ hài lòng với đất nước mình: 2 phần 3 người Mỹ tin rằng đất nước họ đang đi sai hướng và gần 70% đánh giá nền kinh tế là “không tốt” hoặc “kém”.

Tổng thống Trump luôn nói rằng nền kinh tế Mỹ đang “rất không ổn”, guồng máy kinh tế “đang thất bại”… Đất nước có quá nhiều “đầm lầy” và cần được “tát cạn”. Theo tôi, nước Mỹ thật ra chẳng cần ai giúp để nó “vĩ đại trở lại” vì bản thân nó đã và đang “vĩ đại”.

Phải chăng đó chính là nước Mỹ “tự làm khó mình” nếu nhìn từ thập niên 70s cho đến nay. Cũng có thể đó là cách người đứng đầu quốc gia muốn lèo lái dư luận với phương châm “Make America Great Again”!

 

***


Đoàn giảng viên ghé Okinawa trên đường đến Mỹ (1971)


Defense Language Institute, San Antonio, Texas (1971)


Defence Language Institute (1971)


San Antonio, Texas (1971)


Disney Land, Alice's Castle (1971)


Golden Gate Bridge (1971)


The Alamo, San Antonio, Texas (1971)


Tuọng đài Abraham Lincoln, (1971)


Universal Studios (1971)


Lackand AFB (1973)


Universal Studios, California (1973)


Cầm trong tay cục tuyết lần đầu tiên trong đời - Angeles National Forest (1973)


Empire State Building (1994)


New York (1994)


Với bà Krumal, Angeles National Forest (1973)


Tijuana, Mexico (1973)


San Francisco (1994)

Washington D.C, (1994)


Chicago (1994)


Hawaii (1994)


***
--> Read more..

Thứ Sáu, 28 tháng 2, 2025

Tây Du Ký Xưa & Nay

Ngày xưa, thầy trò Đường Tăng phải vượt quãng đường 10 vạn 8 nghìn dặm với 81 kiếp nạn mới đến được Tây Trúc thỉnh chân kinh để đem về Trung Quốc. Ngày nay, sư Minh Tuệ mới chỉ qua 2 nước Lào và Thái, tính ra chỉ mới non nửa dặm trường để đến Ấn Độ nhưng đã trải qua nhiều biến cố!

Tại Thái Lan, tăng đoàn của sư Minh Tuệ tạm thời dừng lại chỉ vì nhóm người được mệnh danh là “hỗ trợ” (gồm các anh Báu, Giáp và Hùng) đã phải rời đoàn về Việt Nam giữa những vụ “lùm xùm” nổ ra với các thành viên trong đoàn. Có thể coi như đó là “kiếp nạn” đầu tiên mà đoàn phải vượt qua!

Chuyến đi của 5 thầy trò Đường Tăng diễn ra trong âm thầm và chỉ đến khi tác giả Ngô Thừa Ân viết Tây Du Ký vào năm 1590, hậu thế mới biết đến cuộc phiêu lưu mang tính cách thuần bí. Tiếp đến, vào năm 1986, chuyện thỉnh kinh trở thành một đề tài “hot” khi đạo diễn Dương Khiết (1929-2017) tạo một dấu ấn cho điện ảnh Trung Quốc.

Trong suốt 6 năm (từ 1982 đến 1988), nữ đạo diễn Dương Khiết đã dàn dựng bộ phim thần thoại đầu tiên Tây Du Ký trên màn ảnh nhỏ và ngày nay đã trở thành tác phẩm kinh điển gắn bó với tên tuổi của bà trong suốt 30 năm qua.

 

Phim “Tây Du Ký” (1986)

 

Đường Tăng tự giới thiệu: "Bần tăng từ Đại Đường đông thổ đến Tây Trúc thỉnh kinh" trong khi sư Minh Tuệ tuyên bố trong một bức thư ngày 23/11/2024: “… Con muốn đi đến đất nước Ấn Độ nơi đất Phật, con muốn đến đó để đảnh lễ 4 thánh tích, để tập học và tri ân đức Phật…”.

 

Đường Tăng

 

Trong Tây Du Ký, một trong những nhân vật trung tâm, được nhiều độc giả yêu mến nhất, chính là nhân vật Tôn Ngộ Không. "Đại Thánh" được sinh ra từ một tảng đá tại Hoa Quả Sơn, sở hữu pháp bảo là “cây gậy như ý”, cùng với phép thuật “thất thập nhị huyền công” và đã từng đại náo thiên cung...

Phàm là những ai từng đọc qua Tây Du Ký, đều biết rằng, người thầy đầu tiên đã truyền thụ 72 phép thần thông biến hóa cùng thuật “cân đẩu vân” cho Tôn Ngộ Không chính là Bồ Đề Tổ Sư, vị đại tiên, có pháp thuật và đạo hạnh vô cùng cao thâm, mà thân phận cũng vô cùng huyền bí.

Thân phận thực sự của Tôn Ngộ Không có thể liên quan đến Phật giáo, cũng chính là tiên thạch trước khi Tôn Ngộ Không ra đời. Trong vô số năm tiên thạch tồn tại, người duy nhất đặc biệt chú ý đến nó chính là Bồ Đề Tổ Sư.

Khi Tôn Ngộ Không vô tình muốn đi tìm quy luật trường sinh thì được con khỉ già ở Hoa Quả Sơn mách đi về phía nơi Bồ Đề Tổ Sư. Núi Hoa Quả và núi Linh Đài Phương Thốn sơn (nơi ngự của Bồ Đề Tổ Sư) cách xa nhau hàng ngàn dặm.

Những kiếp nạn mà thầy trò Đường Tam Tạng phải đối đầu trong cuộc hành trình thỉnh kinh bao gồm những yêu quái, thậm chí một số yêu tinh còn muốn ăn thịt Huyền Trang, một số khác muốn cám dỗ bằng cách biến thành những mỹ nhân.

Tôn Ngộ Không phải sử dụng phép thuật và quan hệ của mình với thế giới yêu quái và Tiên-Phật để đánh bại các kẻ thù nhiều mánh khóe, như Ngưu Ma Vương hay Thiết Phiến Công chúa.

 

Tôn Ngộ Không

 

Trong đoạn cuối cùng khi đã đến cửa Phật, thầy trò họ lại phải đổi Bát Vàng của Hoàng đế Đường Thái Tông tặng để nhận được kinh thật. Đây cũng được tính là một khổ nạn cho năm thầy trò.

Khi qua sông Thông Thiên, Tam Tạng gặp lại Lão Rùa năm xưa chở ông qua sông. Lão Rùa hỏi Tam Tạng rằng ông có hỏi Phật Tổ giúp lão rằng bao giờ lão tu đắc chính quả không, vì Tam Tạng quên hỏi nên bị Lão Rùa hất cả bốn thầy trò lẫn kinh văn xuống sông. Kinh văn bị ướt, sau khi phơi khô một số bị rách. Vì thế mà kinh về đến Trung Thổ không được toàn vẹn.

Trở lại với Tây Du Ký thời nay, dù có phần khiên cưỡng nhưng có thể coi Tôn Ngộ Không của ngày xưa chính là vai trò “hộ pháp” trong việc bảo vệ tăng đoàn ngày nay. Anh Báu đã đóng vai trò của Tôn Ngộ Không trong “công tác an ninh” cũng như trước sư đe doạ của “thế lực thù địch”.

 

Sư Minh Tuệ & Đoàn Văn Báu

 

Bộ ba Báu-Giáp-Hùng vốn là “người trần tục” nên không khỏi có nhiều mâu thuẫn với tăng đoàn, trong đó có những “sư trẻ” mang trong đầu óc “tự do, phóng khoáng”. Sư Minh Tuệ đứng trong vai trò của “người thứ ba” giữa Đạo và Đời. Sư cũng có những nhận xét phải nói là “ba phải” trong con mắt người trần tục!

Khi các anh hỗ trợ chia tay với đoàn, sư không níu kéo mà chỉ gói gọn trong câu “có cũng tốt đẹp, không có cũng tốt đẹp”, đúng theo quan niệm của người đã buông xả tất cả. Người vui, kẻ buồn. Người hoang mang, kẻ lo lắng. Thậm chí có người còn giận, và “ghét” thầy. Đúng là “mọi việc đều tuỳ duyên”!

Trong khi tình hình đang rối ren thì vai trò của anh Theerawat (một tỷ phú Việt kiều ở Thái Lan đã hỗ trợ đoàn ngay từ ngày đầu đến Thái) bỗng trở nên đáng chú ý. Anh khiến người ta liên tưởng đến Bạch mã Hoàng tử trong Tây Du Ký xưa với bộ trang phục màu trắng.

Trong một video clip trao đổi với sư Minh Tuệ, Theerawat tiết lộ việc lo visa thì phải có hộ chiếu, nên con trai anh cầm hộ chiếu để đoàn vào Myanmar, trong khi Báu bị cho là giữ visa của đoàn “làm con tin”! Anh còn cho biết khi thầy đến Ấn Độ, anh sẽ là một “youtuber” để quay những cảnh làm thông tin!

 

Báu-Giáp-Hùng chia tay rời đoàn với anh Theerawat

 

Một số học giả cho rằng Tây Du Ký châm biếm sự suy yếu của chính quyền phong kiến Trung Hoa thời đó. Nhiều nhà bình luận khác cho rằng hình ảnh kết hợp của thầy trò Tam Tạng lại ẩn giấu một khái niệm sâu sắc hơn nhiều, đó là về "tâm", hay còn gọi là bản chất con người. Từ Đường Tam Tạng đến con ngựa đều biểu trưng cho một đặc tính thường thấy của "tâm", 5 thầy trò chính là 5 yếu tố cấu thành bản chất đó.

Đường Tăng tượng trưng cho những tình cảm con người: lòng từ bi, nhân hậu, bao dung, có quyết tâm tu hành vượt qua muôn vàn cám dỗ. Nhưng giàu tình cảm thì cũng đi liền với sự u mê, nhu nhược, ba phải.

Một trăm lần Tề Thiên cản: "Yêu ma đấy, chớ có cứu". Và đủ một trăm lần Đường Tăng cứ cứu, để rồi mắc nạn vương tai. Đó là vì sự nhận thức của cảm tính không biết nghe theo tiếng gọi sáng suốt của lý trí. Đường Tăng cứ lặp đi lặp lại những sai lầm của mình và không có sai lầm nào giống sai lầm nào.

Tôn Ngộ Không tượng trưng cho trí tuệ. Lý trí phải dẫn dắt, phải soi đường cho hành động. Lý trí ưa nổi loạn, ngang tàng phách lối, chẳng chịu thua kém ai. Cho nên Tề Thiên coi mình ngang với Trời và muốn lên trời xuống biển, quậy phá mọi nơi, không chút đắn đo ngần ngại.

Cũng vì thế, Tề Thiên phải đội “vòng kim cô”. Khi về tới chùa Lôi Âm, thành Phật rồi, không cần cởi, vòng kim cô tự lúc nào đã biến mất. Cái trí con người khi đã thuần dưỡng thì không cần kỷ luật nó vẫn vận động đúng.

Trư Bát Giới là tính tham lam và dục vọng. Tham ăn, tham ngủ, tham của, tham sắc và tham nịnh nọt cho được lợi về mình. Bát Giới là sự tập hợp những bản năng rất vật dục và tầm thường nơi con người. Vì thế, mà pháp danh của Bát Giới là Ngộ Năng.

 

Trư Bát Giới

 

Sa Tăng là tính cần cù, nhẫn nại. Sa Tăng phải nhọc nhằn gánh hành lý là lẽ ấy. Tề Thiên mấy bận giận Thầy, mấy phen phải quay về Thủy Liêm Động; Bát Giới đã trăm lần ngàn lượt đòi chia của, rồi mạnh ai đường nấy đi. Chỉ riêng có Sa Tăng suốt cuộc hành trình vẫn một lòng một dạ quảy hành trang tiến tới. Không một lời thoái lui, không một lòng biến đổi.

Sa Tăng là hình ảnh của tinh tiến, trì thủ, tâm bất thoái chuyển. Dù khó khăn đến đâu, đã quyết rồi thì cứ đi tới. Khí giới của Sa Tăng vì thế là bảo trượng có đầu dẹp và bén nhọn, để dễ dàng ghim chặt vào mục tiêu. Pháp danh của Sa Tăng là Ngộ Tịnh: tịnh để mà khắc chế cái động, cái chưa thanh tịnh; tịnh để mà kham nhẫn, chịu đựng.

 

Sa Tăng

 

Bạch Long Mã là con ngựa tượng trưng cho xác thân. Con người đi tìm Chân lý, tìm Đạo, cần có xác thân vững vàng, khoẻ mạnh. Không có ngựa tốt thì Đường tăng không tới được Lôi Âm. Người mà thể xác bệnh hoạn, tinh thần ươn hèn thì không thể chiến đấu để đạt tới Chân lý, đạt Đạo.

Bạch Long Mã là một người quân tử, khôi ngô tuấn tú song vì quá mê tửu sắc nên khi bị người tình phản bội đã nông nổi đập nát báu vật mà Ngọc Hoàng Thượng đế ban cho, chi tiết này tượng trưng cho những hành vi sai lầm mà con người gây ra và trả giá thông qua xác thân của mình.

 

Bạch Long Mã và Đường Tăng

 

Ngoài ra có những chi tiết mang ẩn ý sâu xa, nếu không am hiểu kĩ thì dễ gây hiểu nhầm. Ví dụ, chi tiết A Nan và Ca Diếp đòi Đường Tăng phải dâng bát vàng mới truyền kinh thư khiến nhiều người hiểu nghĩ rằng A Nan và Ca Diếp đòi… hối lộ. Thực ra, làm gì có chuyện vòi vĩnh của đút lót ở cửa Phật.

Cũng nên chú ý đến lời nói của A Nan và Ca Diếp: "Hai vị tôn giả cười nói: Hà Hà! Tay trắng trao kinh truyền đời, người sau đến chết đói mất". Đạo pháp cao thâm thì không thể truyền thụ dễ dàng (đạo pháp bất khinh truyền), cho nên kẻ học đạo, muốn thụ pháp thì phải biết đánh đổi.

Dâng bát vàng chính là mang ý nghĩa đánh đổi. Nếu dễ dàng truyền đạo pháp cho người không xứng đáng, không muốn từ bỏ danh lợi thế tục, chẳng những kẻ ấy không thể hoằng dương được chính pháp mà còn khiến cho đạo pháp suy tàn. Như thế, đời sau sẽ không còn hưởng được pháp thực nữa, nghĩa là tâm linh con người sẽ "đói". Ý nghĩa sâu xa trong câu nói của A Nan - Ca Diếp là như vậy.

Ngoài ra còn một ý nghĩa khi phải để lại bát vàng lúc đã tới được cảnh giới Chân Như, gặp được Phật Như Lai, đó là: cái bát vàng tượng trưng cho sự khất thực, truyền Pháp, hóa Duyên... nay phải bỏ lại vì công quả đã viên mãn, vượt qua được các kiếp nạn. Bát vàng tượng trưng cho công cụ giúp hành giả vượt qua biển khổ, khi đã tới được bến Giác thì cũng không còn cần thiết nữa.

***

Thật là một chuyện ngẫu nhiên khi Tây Du Ký năm xưa của Trung Quốc lại một lần nữa xảy ra với người Việt.

Tuy nhiên, Tây Du Ký “tân thời” mới chỉ mới đi hết non nửa chặng bộ hành và chặng đường phía trước chắc chắn còn nhiều gian nan cũng như trở ngại trước khi tăng đoàn đến được Vùng Đất Phật ở Ấn Độ.

Kính chúc đoàn bộ hành của sư Minh Tuệ… “chân cứng, đá mềm”.


*** 

--> Read more..

Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2025

Cà phê… “huynh đệ chi binh”

Tôi thỉnh thoảng vẫn thưởng gặp bạn bè tại quán Cà Phê Sơn ngay cạnh Bánh mì Cô Thuý trông ra ngã tư Hoa Sứ - Nhiêu Tứ để chuyện trò và đồng thới cũng là một cơ hội tốt để chứng kiến trước mắt cảnh “ông đi qua, bà đi lại” trên bước đường mưu sinh hàng ngày.

Chủ Nhật vừa rồi có hai bạn muốn thay đổi không khí nên sau khi nhắn tin qua lại, chúng tôi quyết định thay đổi đổi địa điểm: Soco Coffee & Tea cũng ở gần đó. Số là các bạn có đọc review của tôi về quán cà phê sân vườn mới mở nên cũng muốn đến đó cho biết.

 

Cà Phê vườn Soco

 

Soco so với Sơn gần hơn vì nằm ngay đầu ngõ nhà, chưa ra đến ngã tư xe cộ đông đúc. Khác biệt lớn nhất ở đây là không gian yên tĩnh, tương phản với cà phê Sơn lúc nào cũng có âm thanh của một góc phố ồn ào.

Dĩ nhiên về giá cả cũng khác xa, khách đến đây thường là những người cần sự riêng tư. Cũng nhờ ngồi tại đây tôi mới nhớ ra ba người gặp nhau sáng nay ngày xưa được gọi là “huynh đệ chi binh” thuộc 3 binh chủng Hải – Lục – Không quân!

 

“Huynh đệ chi binh” trong cà phê vườn cùng Hải và Thảo

 

Tôi là người xưa kia khoác áo màu xanh cây rừng (dù chỉ dạy học nhưng thuộc quân số Bộ binh). Thảo nặc áo trắng của lính biển, thậm chí có thời gian lênh đênh trên Đệ thất Hạm đội của Mỹ. Hải là sinh viên sĩ quan Không quân đang học tại trường Sinh ngữ Quân đội, chưa kịp du học thì 30/4 ập tới.

Chúng tôi đều thuộc “bên thua cuộc” còn ở lại Việt Nam để ngồi đây, trong không gian tĩnh lặng của một cà phê vườn để nhớ lại… “ngày đó”! Giờ đây, chúng tôi không… “ăn mày dĩ vãng” mà là chỉ hồi tưởng những “ngày xưa thân ái” của một thời trai trẻ.

 

Ba anh em bên ly cà phê kèm bánh “paté chaud” ăn sáng

 

Thảo gia nhập Hải quân rồi được cử đi học chuyên môn. Anh cũng có một thời gian học sinh ngữ tại Lackland, San Antonio, Texas, nơi tôi tu nghiệp khoá Giảng viên Anh ngữ. Thảo đã từng qua không biết bao nhiêu trung tâm huấn luyện của Hải quân Hoa Kỳ, kể cả việc thực tập trên Đệ thất Hạm đội.

Hải tuy học trường Sinh ngữ nhưng chưa từng học tôi để… “repeat after me”. Anh có những kỷ niệm khó quên như việc “nhảy dù” khỏi Tent City để về thăm nhà nhưng bị quân cảnh… “bắt tại trận”. Cũng may có một giảng viên trong trường ra tay cứu vớt nên vẫn còn mặc quần áo sinh viên sĩ quan Không quân cho đến ngày được… “giải phóng”.

 

Huy hiệu Trường Sinh ngữ Quân đội

 

Ngày xưa người ta thường nhắc tới “huynh đệ chi binh”, ca tụng sợi dây thân ái của các chàng trai xếp áo thư sinh để mặc áo lính. Bây giờ, chúng tôi khoác trên người “bảy, tám bó”, ngồi uống cà phê để nhớ lại thời trai trẻ và đang chờ “chuyến tàu di tản cuối cùng”!

Có một bài hát của ban AVT tôi còn nhớ mãi, không thể nào quên:

 “… Lúc sướng có nhau là huynh đệ chi binh

Lúc khó có nhau là huynh đệ chi binh

Giúp đỡ lẫn nhau là huynh đệ chi binh…

Huynh đệ chi binh là mình cùng chung đời lính

Thương nhau khác chi nhân tình

Từ người deuxième cà cuống

Và rồi đi lên Ðại Tướng đều là huynh đệ chi binh…”


***


* Video clip: Ban AVT (Anh Hải, Vân Sơn, Tuấn Đăng) với ca khúc “Huynh Đệ Chi Binh” – Nhạc sĩ Anh Bằng: https://www.youtube.com/watch?v=vDTqFpjctVo.

 

*** 

--> Read more..

Thứ Hai, 17 tháng 2, 2025

Nhân ngày Valentine… nói chuyện tình yêu

Tình yêu được nói đến qua Thi ca & Âm nhạc trải qua vô vàn tác phẩm kể từ ngày con người xuất hiện trên trái đất này. Không những thế, Yêu Thương còn được thể hiện qua rất nhiều công trình kiến trúc mà đến ngày nay vẫn còn tồn tại trong suốt lịch sử loài người.

Nhân ngày Valentine 14/2, mời các bạn ngược dòng lịch sử để nhìn lại một vài mối tình đặc biệt của người xưa đối với “bạn tình” mà tôi thấy rất khó có thể diễn ra trong thế giới ngày nay!

 

Happy Velentine’s Day

 

* Ngôi đền Taj Mahal của Ấn Độ là một minh chứng hùng hồn cho tình yêu sâu đậm của Hoàng đế Shah Jahan dành cho Mumtaz Mahal, người vợ đã qua đời khi sinh đứa con thứ 14. Khi Hoàng hậu trút hơi thở cuối cùng, Shah Jahan đã để tang suốt 2 năm trời bằng cách… không nghe nhạc và từ bỏ mọi cuộc vui giải trí.

Hơn thế nữa, năm 1623 “vị Hoàng đế thuỷ chung” cho xây dựng ngôi đền Taj Mahal ở thành phố cổ Agra để tưởng niệm Hoàng hậu quá cố. Ngôi đền được vây quanh bởi 4 ngọn “tháp thuôn” (minaret) cao 40m, chính giữa là lăng mộ với mái vòm hình củ hành theo truyền thống đạo Hindu pha lẫn kiến trúc Ba Tư.

Cũng chính nơi đây, năm 1666 Hoàng đế Shah Jahan đã được chôn trong một nấm mộ bằng đá hoa cương, nằm song song bên người vợ yêu quý khi ông qua đời. Công trình kiến trúc Taj Mahal phải cần đến hàng ngàn lao động để nói lên tình yêu của một Ông Hoàng đối với “một nửa của mình”.

 

Ngôi đền Taj Mahal ở Agra, Ấn Độ

 

* Mối tình vương giả thứ hai thu hút sự chú ý của công chúng xảy ra trong Hoàng gia Anh quốc khi Vua Edward VIII đã từ bỏ ngai vàng để kết hôn với một người phụ nữ nước ngoài.

Ngai vàng được chuyển cho người em trai của ông, Vương tử Albert (tức George VI). Với thời gian trị vì chỉ 326 ngày, Edward là một trong số những vị vua có thời gian trị vì ngắn nhất trong suốt chiều dài lịch sử Anh Quốc.

Edward lên ngôi vua nước Anh ngày 20/1/1936 sau khi vua cha George V băng hà nhưng chỉ một thời gian ngắn sau khi trị vì, ông thoái vị vào ngày 11/12 cùng năm.

Là vua nhưng Edward VIII đã tỏ ra khó chịu vì những lễ nghi rườm rà chốn cung đình, khiến các chính trị gia trong nước lo lắng vì thái độ coi thường hiến pháp của ông. Chỉ vài tháng sau khi lên ngôi, ông gây ra một vụ “khủng hoảng” khi kết hôn với Wallis Simpson, một phụ nữ Hoa Kỳ đã từng ly dị một đời chồng và đang sống ly thân với người chồng thứ hai.

Thủ tướng Anh, Stanley Baldwin, phản đối cuộc hôn nhân vì cho rằng một phụ nữ đã từng ly dị hai đời chồng không đủ tư cách để làm “mẫu nghi thiên hạ”. Theo truyền thống, một cuộc hôn nhân như vậy cũng không hề phù hợp bởi Edward còn là thủ lĩnh tối cao của Giáo hội Anh, Anh giáo phản đối việc tái hôn sau khi ly hôn nếu như người hôn phối cũ vẫn còn sống.

Cuối cùng, ông vẫn kết hôn với Wallis Simpson ở Pháp vào ngày 3/6/1937, sau khi thủ tục ly hôn lần thứ hai của bà hoàn tất. Trong thời Đệ Nhị Thế Chiến, ông lần đầu tiên được bổ nhiệm là người đại diện cho quân đội Anh ở Pháp, nhưng sau khi có người cáo buộc rằng ông theo phe Phát-xít, ông bị đổi làm Toàn quyền xứ Bahamas. Sau chiến tranh, Edward sống nhàn nhã bên vợ suốt quãng đời còn lại ở Pháp.

 

Vua Edward VIII đã từ bỏ ngai vàng để được sống với bà Wallis Simpson

 

* Trong Thế Chiến thứ hai, Horace Greasley là một quân nhân người Anh trong trại tù của Đức Quốc Xã đã vượt ngục hơn 200 lần để được sống với người yêu. Ý trung nhân của Greasley là Rosa Rauchbac, người Đức gốc Do Thái, thông dịch viên trong trại tù nơi anh đang bị giam giữ!

Khi họ mới yêu nhau, Greasley bị chuyển sang làm việc ở một trại tù khác, cách đó khoảng 40 dặm. Xa cách người yêu trong thời gian đầu, Greasley liên tục tìm cách trốn khỏi trại, có khi lên đến 4 lần trong một tuần lễ, chỉ để dò xem Rosa đang làm việc ở đâu rồi lại quay trở về trại.

Trong các lần gặp nhau, Rosa đều cung cấp thực phẩm cho Greasley và các bạn trong tù. Thậm chí Rosa còn móc nối thân nhân người tù cho đến ngày được ra tù vào cuối cuộc Thế chiến, năm 1945.

Điều không may mắn cho cặp “tình nhân lao tù” này là chỉ vài năm sau chiến tranh, Rosa và đứa con chung của hai người đã lìa đời ngay sau đó!

 

Tù nhân trong trại tập trung Đức Quốc Xã

 

* Cuộc tình của “qủa bom nổ chậm” Marilyn Monroe với cầu thủ bóng chày nổi tiếng Joe DiMaggio chỉ kéo dài 274 ngày trong năm 1954 nhưng cuộc hôn nhân ngắn ngủi đó có nhiều chuyện khiến người hâm mộ bàn tán không ít.

Chính DiMaggio là người đã đứng ra chăm sóc cô đào tóc vàng khi Marilyn Monroe đang điều trị tại bệnh viện tâm thần trước khi ly dị với nhà văn kiêm kịch tác gia Arthur Miller. Thậm chí DiMaggio còn tính đến chuyện hai người sẽ tái hợp để nối lại sợi dây tình cảm đã bị cắt đứt trước đó!

Thực tế DiMaggio chưa bao giờ kịp tái hồi Marilyn và ông cũng từ chối bình luận về cái chết của Marilyn. Có điều trong suốt 20 sau khi Marilyn qua đời, DiMaggio một tuần 3 lần tặng hoa hồng trên mộ Marilyn. Đó là một thứ tình yêu với một cử chỉ quan tâm đặc biệt dù người mình yêu đã vĩnh viễn rời xa!

 

Cặp tình nhân “đặc biệt” Marilyn Monroe & Joe DiMaggio

 

Chắc bạn còn nhớ truyện “Love Story” của Erich Segal (1937- 2010) đã một thời “làm mưa, làm gió”. Có một danh ngôn của nhân vật trong chuyện đã “phán”: 

"Love means never having to say you're sorry"

 

Tác phẩm “Love Story” – Tác gỉa Erich Segal (1937- 2010)

 

*** 

--> Read more..

Thứ Tư, 12 tháng 2, 2025

Ra giêng đi hớt tóc

Khác với đa số mọi người, thay vì đi hớt tóc vào những ngày cuối năm để ăn Tết, năm mào tôi cũng đợi đến ra giêng mới đi hớt tóc. Đơn giản chỉ vì người ta đua nhau đến tiệm hớt tóc để “o bế” cái đầu đón xuân cho có vẻ lịch sự, chải chuốt. Cũng vì thế, đến tiệm hớt tóc trước Tết bao giờ cũng phải ngồi chờ!

 

Ra giêng… hớt tóc

 

Ngay từ thời còn bé, đầu tóc tôi đã có những sợi “vô kỷ luật”, cứ đòi vươn lên dù đã cố tình chải ép chúng nằm xuống, nhất là phía sau gáy. Cũng vì thế bạn bè ngay từ thời tiểu học đã gọi tôi là “Gà Gô” chỉ vì những sợi tóc cứ tự do vểnh lên “trêu ngươi” như… cái đuôi con gà gô!

Ngày còn ở Đà Lạt, ở đoạn nối đường Lê Thái Tổ với Trần Hưng Đạo có một khu được mệnh danh “Garage Martinet” (gara của người Pháp) sau đổi thành Ty Dụng Cụ dưới thời VNCH. Đối diện với gara là một dãy những “kiosk” nhỏ nhưng trong số đó có một quán mà sau này nổi tiếng với cái tên cho cả khu: “Xóm Bà Thái”.

Bà Thái vốn là người kinh doanh “thân thể phụ nữ” từ Sài Gòn lên Đà Lạt lập nghiệp. Hồi đó, nhạc Mỹ đang thịnh hành, trong đó có bản nhạc “Summertime” cho nên “giới hảo ngọt” mới đặt chết tên khu này là “Xóm Bà Thái”.

 

“Xóm Bà Thái”, Đà Lạt xưa (ảnh tư liệu)

 

Trở lại với đề tài râu tóc. Trong “Xóm Bà Thái” có một “kiosk” dành cho nam giới ghé vào để hớt tóc (chứ không phải để “tìm hoa thơm cỏ lạ”). Tôi đã nhiều lần ngồi trên ghế hớt tóc, chứ không phải là “tìm hoa” vì tuổi còn “ngây thơ trong trắng”, chưa từng biết đến “cái thú” của các bậc thanh niên đa tình!

Hớt tóc cũng có cái thú là được trò chuyện cùng các anh thợ sử dụng “tondeuse”. Hồi xưa thợ hớt tóc còn dùng loại “tông-đơ” điều khiển bằng tay, ngày nay được thay bằng điện nên “hiện đại” nhưng cũng “hại điện” hơn nhiều! Có nhiều anh (hay bác) thợ hớt tóc tỏ ra là người theo dõi rất nhiều chuyện thời sự thường ngày.

Ít ra thì các anh cũng biết một anh thợ hớt tóc sau này là “Ông Hoàng nhạc Việt”. Đàm Vĩnh Hưng đã khuấy động “showbiz” với những chuyện động trời, nổi bật nhất là vụ kiện hàng trăm triệu đô la khi anh biểu diễn bị té trong một bữa tiệc tại nhà của một tỷ phú người Mỹ có vợ Việt.

 

Hớt tóc dạo

 

Ngày nay còn có dịch vụ “hớt tóc thanh nữ” có nghĩa là các bà, các cô đứng hớt tóc cho các bậc “tu mi, nam tử” tại các tiệm “đứng đắn” nhưng cũng có những nơi phái nam đến để hớt tóc là phụ còn chuyện “kia” mới là chính.

Nói chuyện giết thì giờ trong khi hớt tóc cũng là một cái thú, nhất là gặp những “thợ cạo” hiểu biết chuyện thời sự đăng trên mạng. Chẳng hạn như chuyện dài về “drama” của CEO Đại Nam Nguyễn Phương Hằng, chuyên gia “bốc phốt” đủ mọi hạng người trong xã hội!

Lại cũng có chuyện mới đây một khách nữ từ chối thanh toán tiền sau khi đã ngồi để thợ làm tóc suốt nửa ngày trời. Lý do khách đưa ra thật đơn giản: thợ đã không nhuộm tóc theo đúng ý! Thật tội nghiệp cho người thợ đã bỏ ra công sức để làm đẹp cho vị khách khó tính này!

 

Hớt tóc vỉa hè

 

Tôi cũng đả có lần tham gia câu chuyện bằng cách đặt ra câu hỏi các anh “thợ cạo” có biết ngày nay nghề nghiệp có thể chiếm một vị trí “quan trọng” là nghề gì không? Đa số các anh đều có vẻ còn đang suy nghĩ về câu hỏi, tôi bèn tự trả lời một cách… bất ngờ:

“Một trong những nghề uy tín nhất cũng như danh giá nhất là…những người thợ hớt tóc. Này nhé, những vị vua chúa ngày xưa cũng như Tổng thống ngày nay khi ngồi trên ghế hớt tóc đều phải răm rắp nghe theo sự điều khiển của “các bác phó cạo”. Thậm chí còn có lúc họ được phép thản nhiên “đè đầu, vặn cổ” khách (dù là vua chúa hay những vị quyền cao, chức trọng) theo ý của mình trong lúc hành nghề…”

Bác phó cạo cười ngụ ý đồng tình với nhận xét đó nhưng cũng nói thêm… “chỉ lúc hành nghề thôi chứ bình thường mà làm như vậy thì đâu có được! Nhiều khi lại còn bị… chém đầu nữa là đằng khác”.

 

Bộ đội cắt tóc ngoài đường (sau 30/4/1975)

 

Tiếp xúc với những người thuộc ngành nghề đặc thù này, tuy chỉ có tính cách “làm đẹp” cho khách hàng, tôi thấy thế giới của họ thật thú vị vì có cơ hội gần gũi, dù chỉ trong giây lát, nhưng cũng đủ để làm phong phú “kinh nghiệm nghề nghiệp” của họ!

 

*** 

--> Read more..

Popular posts