Thứ Hai, 19 tháng 6, 2017

“Tân Sơn Nhứt” hay “Tân Sơn Nhất”?

Gần đây trên cộng đồng mạng dấy lên phong trào đòi lại đất “quốc phòng” cho phi trường Tân Sơn Nhất. Bài viết này không bàn về chuyện đất đai có vẻ “nhạy cảm” về chính trị mà chỉ nói đến chuyện ngôn ngữ trong tiếng Việt.

Vấn đề đặt ra là “Tân Sơn Nhứt” hay “Tân Sơn Nhất”? Nhiều hình xưa cho thấy tên gọi “Tân Sơn Nhứt” thuộc dòng “chính chủ”, được sử dụng một cách chính thức và được coi là “trademark” của phi trường lớn nhất miền Nam. Đó là điều không thể chối cãi với những chi tiết lịch sử.

Phi trường được xây dựng vào năm 1930 ở làng Tân Sơn Nhứt, thuộc quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định. Chuyến bay đầu tiên từ Paris đến Sài Gòn ở sân bay Tân Sơn Nhứt là vào năm 1933, chuyến bay này kéo dài 18 ngày. Năm 1956 Mỹ cho xây dựng phi trường rộng hơn, dài hơn 3000 m, bằng bê tông. Trong khi đó sân bay do Pháp xây dựng năm xưa dài hơn 1500 m, bằng đất đỏ. Tuy nhiên tính theo diện tích thì phi trường vào năm 2016 chỉ còn 1/4 đến 1/5 so với phi trường Tân Sơn Nhứt năm 1975.

Phi trường Tân Sơn Nhứt thời Pháp thuộc

Tại sao lại có tên “Phi trường Tân Sơn Nhất”?

Mặc dù không được chính thức đổi tên bằng bất kỳ một văn bản nào của chính phủ VNCH nhưng, theo tôi, “Tân Sơn Nhứt” đã được nhiều người gọi là “Tân Sơn Nhất” kể từ sau cuộc di cư của hơn 1 triệu người miền Bắc vào Nam năm 1954, khi Hiệp định Genève được ký kết, chia đôi nước Việt Nam thành hai quốc gia.

Đó là “hiện tượng ngôn ngữ” chứ không phải là một thay đổi mang màu sắc chính trị. Người di cư miền Bắc vào Nam khi đó không quen với cách gọi “Nhứt” nên đổi sang “Nhất” và lâu ngày trở thành thói quen được cả người Nam lẫn Bắc chấp nhận.

Cổng Phi Long của Không quân trong Phi trường TSN năm 1961

Tôi là người từ Hà Nội vào Nam năm 1953, trước cuộc di cư năm 1954 của số đông người miền Bắc. Những ngày đầu tiên vào Đà Lạt tôi có dịp khám phá những chuyện thật trẻ con về vấn đề ngôn ngữ.

Chúng tôi chơi trốn tìm, tôi đinh ninh là bạn mình trốn sau cánh cửa nhưng cu cậu (người miền Nam) lại xuất hiện sau tấm màn đỏ và reo lêu: “Lêu lêu mắc cở”. Người Bắc không có chữ “mắc cở” nên tôi suy luận: “mắc cở” là... cái màn cửa màu đỏ.

Có thể gọi đó là “cultural shock” ở mức độ trẻ con khi có sự khác biệt về ngôn ngữ giữa hai miền Nam-Bắc. Người miền Bắc nói “Nhặt hộ tôi qủa bóng” nhưng người miền Nam dùng những từ khác hoàn toàn để diễn tả cùng ý nghĩa: “Lượm giùm qua trái banh”.

Ở trong Nam, bạn bè cùng lớp gọi nhau bằng “trò”, sau này tiếng trò được thay bằng “bạn”. Ở trường, học sinh người Bắc gọi cây “bút” nhưng ở miền Nam lại gọi là cây “viết”“cục tẩy” được thay bằng “cục gôm” tại miền Nam, v.v...
Những người Bắc mới di cư vào Nam thường có khuynh hướng bắt chiếc sử dụng những từ và cách phát âm của miền Nam, chẳng hạn như hột vịt đọc thành hột ‘dzịt’, đôi vớ (tất) thành đôi ‘dzớ’. Quả thật nghe rất… chướng tai!

Bảng chào mừng của căn cứ Không quân TSN năm 1967

Hiện tượng này cũng xảy ra sau năm 1975, số người miền Bắc nhập cư miền Nam ngày càng đông và người ta thấy những trường hợp người Bắc cố sửa giọng Nam để hòa nhập. Tại sao người ta không giữ giọng điệu của địa phương mình khi đến một địa phương khác? Để thích nghi hay sợ kỳ thị?  

Đối với những học sinh di cư từ Bắc vào Nam như tôi cũng không phải là ngọai lệ. Đó là vấn đề thích nghi. Tôi cố theo lối phát âm miền Nam khi ở trường vui chơi với bạn bè nhưng khi về đến nhà tôi lại giữ nguyên giọng Bắc. Cho đến bây giờ tôi vẫn giữ giọng Bắc khiến nhiều người vẫn tưởng tôi là “Bắc kỳ 75” chứ không ngờ là “Bắc kỳ 54”!

Dù sao đi nữa, tôi vẫn hãnh diện là Bắc kỳ 54, có người còn gọi là Bắc kỳ 9 nút (5+4=9 nút) để phân biệt với Bắc kỳ 2 nút (7+5=2 nút). Tôi hoàn toàn không thấy sự kỳ thị khi được “dán nhãn” là “Bắc kỳ 54”!

Hình ảnh phi trường TSN năm 1967

Không biết một thi sĩ nghiệp dư nào đó làm cả một bài thơ nói về sự khác biệt về từ ngữ giữa hai miền Nam-Bắc:

“Bắc bảo kỳ, Nam kêu cọ
Bắc gọi lọ, Nam kêu chai
Bắc mang thai, Nam có chửa
Nam xẻ nửa, Bắc bổ đôi
Ôi! Bắc quở gầy, Nam than ốm
Bắc cáo ốm, Nam khai bịnh
Bắc định đến muộn, Nam liền la trễ
Nam mần sơ sơ, Bắc làm lấy lệ
Bắc lệ tuôn trào, Nam chảy nước mắt
Nam bắc vạc tre, Bắc kê lều chõng
Bắc nói trổng thế thôi, Nam bâng quơ vậy đó
Bắc đan cái rọ, Nam làm giỏ tre,
Nam không nghe nói dai, Bắc chẳng mê lải nhải
Nam cãi bai bải, Bắc lý sự ào ào
Bắc vào ô tô, Nam vô xế hộp
Hồi hộp Bắc hãm phanh, trợn tròng Nam đạp thắng
Khi nắng Nam mở , Bắc lại xoè ô
Điên rồ Nam đi trốn, nguy khốn Bắc lánh mặt
Chưa chắc Nam nhắc từ từ, Bắc khuyên gượm lại
Bắc là quá dại, Nam thì ngu ghê
Nam sợ ghê, Bắc hãi quá
Nam thưa tía má, Bắc bẩm thầy u
Nam nhủ ưng ghê, Bắc mê hài lòng
Nam chối lòng vòng, Bắc bảo dối quanh
Nhanh nhanh Nam bẻ bắp, hấp tấp Bắc vặt ngô
Bắc thích cứ vồ, Nam ưngchụp
Nam rờ bông bụp, Bắc vuốt tường vi
Nam nói: Mầy đi! Bắc hô: Cút xéo!
Bắc bảo: cứ véo, Nam: ngắt nó đi.
Bắc gửi phong bì, bao thơ Nam gởi
Nam kêu: muốn ói, Bắc bảo: buồn nôn
Bắc gọi tiền đồn, Nam kêu chòi gác
Bắc hay khoác lác, Nam bảo xạo ke
Mưa đến Nam che, gió ngang Bắc chắn
Bắc khen giỏi mắng, Nam nói chửi hay
Bắc nấu thịt cầy, Nam thui thịt chó
Bắc vén búi tó, Nam bới tóc lên
Anh Cả Bắc quên, anh Hai Nam
Nam: “Ăn đi chú”, Bắc: “Mời anh xơi”
Bắc mới tập bơi, Nam thời học lội
Bắc đi phó hội, Nam tới chia vui
Thui thủi Bắc kéo xe lôi, một mình xích lô Nam đạp
Nam thời mập mạp, Bắc cho là béo
Khi Nam khen béo, Bắc bảo là ngậy
Bắc quậy sướng phê, Nam rên đã quá
Bắc khoái đi phà, Nam thường qua bắc
Bắc nhắc môi giới, Nam liền giới thiệu
Nam ít khi điệu, Bắc hay làm dáng

“Tán mà không thật, Bắc bảo là điêu
Giỡn hớt hơi nhiều, Nam kêu là xạo
Bắc nạo bằng gươm, Nam thọt bằng kiếm
Nam mê phiếm, Bắc thích đùa
Bắc vua bia bọt, Nam chúa la-de
Bắc khoe “bùi bùi lạc rang”, Nam “thơm thơm đậu phọng”
Bắc xơi na vướng họng, Nam ăn mãng cầu mắc cổ

“Khi khổ Nam tròm trèm ăn vụng, Bắc len lén ăn vèn
Nam toe toét “hổng chịu đèn“, Bắc vặn mình “em chả”
Bắc giấm chua “cái ả”, Nam bặm trợn “con kia”
Nam mỉa “tên cà chua“, Bắc rủa “đồ phải gió”
Nam nhậu nhẹt thịt chó, Bắc đánh chén cầy tơ
Bắc vờ vịt lá mơ, Nam thẳng thừng lá thúi địt
Đến khi Nam địt, Bắc hô đánh rắm
Khi tắm, Nam xách thùng thì Bắc bê
Nam bỏ trong rương, Bắc tuôn vào hòm
Nam lết vô hòm, Bắc mặc áo quan
Bắc xuýt xoa: “Cái Lan xinh cực!”
Nam trầm trồ: “Con Lan đẹp hết chê!”

Phủ phê Bắc trùm chăn, no đủ Nam đắp mền
Tình Nam duyên Bắc có thế mới bền, mới lâu!

Phi trường TSN năm 1970

Trở lại vấn đề “Nhứt” hay “Nhất” chúng ta có rất nhiều trường hợp khác biệt về ngôn ngữ để chứng minh: người Bắc đặt tên con là Chính (như trường hợp của tôi) nhưng nếu sinh trưởng trong một gia đình miền Nam, chắc chắn tên tôi sẽ là “Chánh”!

Ngày xưa, họ “Hoàng” chỉ có ở miền Bắc và họ “Huỳnh” chỉ có ở trong Nam. Cũng có thay đổi  tương tự đối với họ “Vũ” và “Võ” khiến ta chỉ cần nhìn vào cái tên cũng có thể đoán được xuất xứ. Ngày nay sự phân biệt đó hầu như không còn được chú ý đến nữa.

Phi trường TSN trước 1975

Thế cho nên, “Tân Sơn Nhứt” hay “Tân Sơn Nhất” chỉ là cách gọi theo vùng miền từ thời VNCH chứ không phải từ sau 1975. Bằng chứng là tôi (năm nay đã ngoài 70) chưa một lần nói “Tân Sơn Nhứt” và những bạn gốc từ miền Nam cũng dùng “Tân Sơn Nhất” trong ngôn ngữ hàng ngày.

Xin nhắc lại, dùng “Nhứt” hay “Nhất” không phải là “sự kỳ thị chính trị” mà xuất phát từ sự khác biệt về ngôn ngữ vùng miền. Đó là điều tôi muốn nói trong trường hợp “Tân Sơn Nhứt - Tân Sơn Nhất”.

Hành khách lên Air Vietnam tại TSN trước 1975


***

1 nhận xét:

  1. Trước giờ cứ tưởng huynh trưởng tên Chinh
    Lỗi đánh máy:"Xinh nhắc lại," dư chữ h

    Trả lờiXóa

Popular posts