Thứ Tư, 5 tháng 3, 2025

Nước Mỹ nhìn từ thập niên 70s

Tôi đến nước Mỹ năm 1971, khi đó chiến tranh Việt Nam vẫn còn là đề tài chiến sự nóng hổi hằng ngày. Đó cũng là thời điểm mà người dân Mỹ, dù tiền thuế của họ đóng góp cho chiến tranh bên kia bờ Thái Bình Dương, vẫn khó mường tượng hai chữ Việt Nam nằm ở đâu trên bản đồ thế giới!

Tháng 10/1971 tôi đến Mỹ với cấp bậc Thiếu uý, Giảng viên Anh ngữ của Trường Sinh ngữ Quân đội, để theo học khoá đào tạo giảng viên căn bản “English Language Basic Course”. Đến Mỹ trong thời gian này là một kỷ niệm khó quên của một thanh niên vừa bước vào đời.

Cảm giác đầu tiên là sự bỡ ngỡ trước một xã hội được coi như là điển hình của một đất nước rộng lớn nhưng cũng đa dạng về tình người. Nước Mỹ, còn được gọi là Hiệp Chủng Quốc, cái tên hàm ý một quốc gia được kết hợp bởi sự đa dạng chủng tộc từ khắp mọi nơi trên trái đất, đủ mọi màu da, đủ mọi chính kiến.

Hồi đó, có mặt trên đất nước này với màu da vàng, tôi được người Mỹ “coi như là” người Tàu trên đường phố. Họ ngạc nhiên khi tôi tự giới thiệu là người Việt Nam vì khi đó chưa xuất hiện “boat people” như bây giờ. Những khi mặc quân phục với dòng chữ “Vietnam” trên vai trái nhiều người vẫn còn thắc mắc: Việt Nam ở đâu trên bản đồ thế giới?

Có lẽ chỉ những gia đình Mỹ bình thường có con em đi “quân dịch” và được gửi sang Việt Nam chiến đấu mới quan tâm đến đất nước này, nhưng quả thật nhiều người còn thắc mắc không biết đó là Bắc hay Nam Việt Nam nơi con cái họ đang phục vụ!

Trước khi đến “xứ cờ hoa”, tôi có quen với một giảng viên người Mỹ tên Tronvig, cùng dạy tại trường. Khi biết tôi sẽ du học, anh ngỏ ý muốn giới thiệu tôi với gia đình anh đang sống tại Walnut Creek, California. Anh còn cẩn thận ghi số điện thoại để khi đến căn cứ Travis tôi có thể liên lạc với họ qua “long distance call”.

Gia đình Tronvig thật hiếu khách, ngày đầu tiên họ đã đưa tôi đến chiêm ngưỡng chiếc cầu treo bắc ngang Vịnh San Francisco được khánh thành năm 1937. Tôi đã được thấy “Golden Gate Bridge” ở San Francisco, tượng trưng cho “Cổng Vàng” để chào đón những người bên kia bờ Thái Bình Dương đến “vùng đất hứa” của “American Dream”, một giấc mơ mà nhiều người ấp ủ.

Ngay từ ngày đầu tiên đặt chân đến Mỹ tôi đã cảm nhận một mối tình cảm đặc biệt về một vùng đất hứa hẹn nhiều khám phá đối với một thanh niên vừa bước vào đời từ một nền văn hoá còn khép kín ở quê nhà.

Tình cảm đó, nếu đem so sánh với những người Việt “tỵ nạn” trong đợt di dân ồ ạt sau ngày 30/4/1975 hoàn toàn khác biệt. Hồi đó, tôi chỉ là một “người khách” đến học hành rồi đi trong khi “boat people” chọn nước Mỹ là “quê hương thứ hai” trên bước đường “tạm dung”.

Trong khoá học, ngoài những chuyến “field trip” ngắn ngày, đi thăm những khu vực quanh Texas, chúng tôi còn có một chuyến dài ngày “về miền đông” như thủ đô Washington D.C., New York, Philadelphia… để tìm hiểu thêm về những thành phố lớn của Mỹ.

Cuối khoá, chúng tôi có 15 ngày để di chuyển từ Texas đến San Francisco chờ đáp máy bay về Việt Nam. Chúng tôi mua vé loại “open ticket” của hãng xe bus Geyhound theo cách thật tiết kiệm: “ban ngày ghé các thành phố dọc đường xem cho biết, ban đêm lên xe bus ngủ cho đỡ tiền thuê khách sạn”.

***

Năn 1973, Trường Sinh ngữ lại tiếp tục gửi một số giảng viên theo học khoá tu nghiệp “English Language Instructor, Refresher Course” trong 3 tháng. Lần đi Mỹ thứ hai tôi mang cấp bậc Trung uý, cũng vẫn trường xưa Defense Language Institute ở Căn cứ Lackland, San Antonio, Texas.

Đây cũng là dịp để hiểu thêm về nước Mỹ mà những người Việt định cư tại Mỹ sau này ít có cơ hội khám phá vì phải lo “cơm áo gạo tiền”, bù đầu với công việc kiếm sống. Xét cho cùng, một người du học có nhiều cơ hội tìm hiểu nước Mỹ nhiều hơn một di dân phải bù đầu vì “2 hay 3 jobs” để nuôi sống gia đình.

Chuyến đi 15 ngày sau khi mãn khoá tôi tìm đến YMCA (Young Men’s Christian Association - Hiệp hội Thanh niên Cơ Đốc), một tổ chức có hơn 58 triệu người đóng góp tại 125 chi hội cấp quốc gia. Tôi được giới thiệu đến gia đình Krumals sống tại Los Angeles.

Krumals là một gia đình điển hình người Mỹ với sự cởi mở và thân thiện. Gặp lúc nghe tin ở trên núi có tuyết họ không ngần ngại lái xe đến Angeles National Forest để chúng tôi “thấy tận mắt, rờ tận tay” những mảng tuyết lớn. Lần đầu trong đời, chúng tôi chơi trò ném tuyết một cách hồn nhiên như trẻ thơ.

Chúng tôi đã có dịp đến Disneyland nổi tiếng tại Mỹ, Universal Studios thăm phim trường hay đến San Francisco với xe điện cổ leo những con dốc thoai thoải giữa tiếng leng keng của tàu điện.

Hàng xóm của gia đình Krumals cũng rất thân thiện khi biết tin có những chàng trai từ Việt Nam đến trú ngụ. Họ còn tổ chức một chuyến du lịch vượt biên giới Mexico để đến thị trấn Tijuana “thăm dân cho biết sự tình”!

***

Năm 1994 tôi lại có dịp đến Mỹ với tư cách phóng viên của tờ Vietnam Investment Review. Nước Mỹ trong giai đoạn này đã tiếp nhận rất nhiều người Việt, đa số là những “người tị nạn” đã có một cuộc sống tương đối ổn định trên “xứ tạm dung”.

Nước Mỹ hồi đó cũng có nhiều thay đổi theo tình hình của thế giới. Ngày xưa, Mỹ được coi như một trong số những đất nước giàu có với tài nguyên phong phú, hoạt động kinh tế phát triển nên các chính phủ có “chính sách tương đối thoáng”, sẵn sàng hỗ trợ các nước nghèo ở châu Phi, châu Á.

Ngày nay Mỹ đang “siết chặt hầu bao”, cụ thể là đương kim Tổng thống Trump đã có kế hoạch đóng cửa Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), một cơ quan thể hiện sự hào phóng của nhân dân Mỹ cũng như góp phần thúc đẩy hành trình tiến tới bền vững của nước nhận tài trợ.

USAID hợp tác với chính phủ Việt Nam, từ khu vực tư nhân, các trường đại học và tổ chức nghiên cứu, đến các tổ chức trong nước và quốc tế cũng như các bên liên quan khác kể từ năm 1989 nhằm thúc đẩy các ưu tiên chung.

Trước khi vào quân đội năm 1968, tôi đã có một thời gian làm việc với đoàn MILPHAP (Military Provincial Hospital Assistance Program) tại Dân y viện Ban Mê Thuột do chương trình USAID tài trợ. Đây là đoàn gồm 3 bác sĩ và những y tá của quân đội Hoa Kỳ nhưng lại phục vụ ngành dân y tại thị xã.

Tuy thời gian làm việc tương đối ngắn nhưng tôi cũng nhận thấy rõ tôn chỉ hoạt động của USAID tại Việt Nam: giúp đỡ về y tế cho các cơ sở dân y trong tình trạng chiến tranh khốc liệt trên cả nước.

Thật đáng buồn khi chính quyền của Tổng thống Trump đang biến USAID, một tổ chức đã tồn tại hàng thập kỷ, chịu trách nhiệm thực hiện các chương trình viện trợ trên toàn thế giới, trở thành mục tiêu hàng đầu trong chiến dịch tinh giản chính phủ liên bang. Đó cũng có thể xem như một chính sách “hướng nội” thay vì “hướng ngoại” như trước đây.

Gần đây truyền thông thế giới đã có không ít bài viết bàn về khẩu hiệu “Make America Great Again” sau khi “cuộc chiến tranh lạnh” kết thúc. Một bài viết trên The Economist năm 2025 cho biết nước Mỹ hiện chiếm 26% GDP toàn cầu với một thị trường tài chính mạnh khiến các công ty khởi nghiệp dễ dàng huy động vốn một cách tốt hơn thay vì phải đi vay tiền mặt.

Điều mâu thuẫn lớn nhất là nước Mỹ luôn cho thế giới thấy họ là một… “mớ hỗn độn” do chính người dân Mỹ tạo ra. Gần như không bao giờ người Mỹ hài lòng với đất nước mình: 2 phần 3 người Mỹ tin rằng đất nước họ đang đi sai hướng và gần 70% đánh giá nền kinh tế là “không tốt” hoặc “kém”.

Tổng thống Trump luôn nói rằng nền kinh tế Mỹ đang “rất không ổn”, guồng máy kinh tế “đang thất bại”… Đất nước có quá nhiều “đầm lầy” và cần được “tát cạn”. Theo tôi, nước Mỹ thật ra chẳng cần ai giúp để nó “vĩ đại trở lại” vì bản thân nó đã và đang “vĩ đại”.

Phải chăng đó chính là nước Mỹ “tự làm khó mình” nếu nhìn từ thập niên 70s cho đến nay. Cũng có thể đó là cách người đứng đầu quốc gia muốn lèo lái dư luận với phương châm “Make America Great Again”!

 

***


Đoàn giảng viên ghé Okinawa trên đường đến Mỹ (1971)


Defense Language Institute, San Antonio, Texas (1971)


Defence Language Institute (1971)


San Antonio, Texas (1971)


Disney Land, Alice's Castle (1971)


Golden Gate Bridge (1971)


The Alamo, San Antonio, Texas (1971)


Tuọng đài Abraham Lincoln, (1971)


Universal Studios (1971)


Lackand AFB (1973)


Universal Studios, California (1973)


Cầm trong tay cục tuyết lần đầu tiên trong đời - Angeles National Forest (1973)


Empire State Building (1994)


New York (1994)


Với bà Krumal, Angeles National Forest (1973)


Tijuana, Mexico (1973)


San Francisco (1994)

Washington D.C, (1994)


Chicago (1994)


Hawaii (1994)


***
--> Read more..

Popular posts