Đây là truyện ngắn, không rõ tên tác giả. Thoạt đầu người đọc thấy đây là câu chuyện tình cảm giữa hai người phụ nữ: mẹ và con. Đọc hết chuyện, người ta không thể không nghĩ đến một vấn đề rộng lớn hơn: "hòa hợp, hòa giải". Trong phạm vi gia đình mà vẫn chưa "hòa hợp & hòa giải" được sau 30 năm chiến tranh thì trong phạm vi xã hội sẽ còn rất nhiều rào cảm để cùng bắt tay nhau.
***
Người mẹ tập kết
Tôi
không khó khăn nhận ra mẹ khi bà vừa bước ra khỏi trạm kiểm soát an ninh phi
trường. Một tay kéo chiếc valy nhỏ, một vai mang chiếc xách tay, mẹ thong dong
như trôi theo dòng người. Dáng mẹ trông mảnh mai, thanh nhã, linh hoạt dù rằng
đã ở cái tuổi tám mươi. Tóc đã bạc phơ.
Chiếc
áo sơ mi màu trắng như giúp khuôn mặt mẹ tươi tắn hơn ngày tôi gặp mười lăm năm
trước. Mẹ đưa mắt tìm kiếm. Tôi giơ tay vẫy. Bà mừng rỡ vẫy lại. Tôi cười khi mẹ
đến gần: “Chào mẹ!”
Mẹ
buông rơi chiếc va ly, mở vòng tay ôm ghì lấy tôi. Tôi cũng ôm xiết mẹ mà sao
không cảm nhận chút nồng ấm nào. Từ khi chưa đầy một tuổi, ba mẹ tôi đã đành đoạn
bỏ rơi tôi. Thôi nôi, ngoại cúng kiến van vái. Lên ba, ông ngoại mất. Lên năm,
bà ngoại lìa đời. Cậu mợ tôi thừa hưởng gia sản nên… thừa hưởng luôn việc săn
sóc dưỡng dục tôi. Vì vậy mà khi khôn lớn, tôi hầu như quên hẳn mình còn đủ cha
đủ mẹ.
***
Tôi
lái xe vào trung tâm thủ đô, chạy vòng vòng cho mẹ xem phố xá rồi quẹo sang đường
Constitution. Tôi chỉ mẹ xem đài tưởng niệm Washington, tòa Bạch Ốc và hứa một
ngày khác sẽ đưa mẹ vào xem tận bên trong. Mẹ nói mẹ muốn ưu tiên gặp em của mẹ,
còn việc tham quan chừng nào cũng được. Tôi cho mẹ biết cậu mợ đang chu du Âu
châu, hai tuần nữa mới về. Sợ mẹ hiểu lầm, tôi giãi bày:
“Cậu mợ ghi tên đi
chơi trước ngày mẹ báo tin qua đây nên không hủy bỏ được. Con đã xin nghỉ một
tháng. Trong tháng đó mình sẽ đi một vòng sơ khởi nước Mỹ. Mẹ sẽ gặp em trai mẹ
vào tuần lễ thứ ba...”
Tôi
ngưng nói khi thấy mẹ xoay mặt về khung cửa kính. Nhân lúc xe qua cầu, tôi cất
cao giọng: “Đây là sông Potomac. Đi xuôi
dòng sẽ trông thấy một phần hình ảnh rất đẹp của thủ đô. Nhà của con phía thượng
dòng cách đây độ nửa giờ.”
Mẹ
vẫn nhìn quang cảnh thành phố, chỉ có tiếng “thế
à” hờ hững vang lên. Tôi nhìn đồng hồ và mừng là đã tới giờ cơm chiều. Tôi
nói nhỏ nhẹ: “Suốt ngày đêm trên máy bay,
chắc mẹ thèm cơm. Khu thương mại Eden của người Việt vùng này có một nhà hàng nấu
món canh chua cá bông lau, cá kho tộ ngon lắm!”
Bà
nói giọng mệt mỏi: “Nói chung thì mẹ thèm
một tô phở.” Một cái gì nghẹn ngào đột ngột trào dâng trong tôi. Hai mươi
năm tập kết ra Bắc mẹ đã bị đồng hóa. Không chỉ thay đổi cả giọng nói, ngôn từ
mà lơ là luôn cả món ăn ưa thích của miền Nam. Tôi ngờ rằng bà không phải là
người sinh ra tôi…
Tôi
đưa mẹ vào tiệm Phở Xe Lửa và gọi tô đặc biệt. Mẹ khen ngon hơn phở ở Sài Gòn. “Nhưng vẫn thua phở Hà Nội”, tôi nhanh
nhẩu tiếp lời. Mắt mẹ thoáng chút ngạc nhiên rồi lặng lẽ quan sát xung quanh… Tôi
cũng quan sát bà. Tôi giống mẹ lạ lùng. Chắc chắn nhìn chúng tôi, không ai nghĩ
khác hơn là mẹ và con. Mà giống mẹ để làm gì khi tâm hồn chúng tôi không có
chút gì hòa điệu…
***
Tôi
nhấn một chiếc nút trên trần khi xe sắp quẹo vào driveway và lái thẳng vào
garage. Trong khi tôi mở cóp nhấc xuống các hành lý, mẹ đi ra phía trước đường.
Tôi bước đến bên mẹ khi bà ngắm nghía ngôi nhà, trầm trồ: “Nhà của con đây hả? To và đẹp quá, ngoài tưởng tượng của mẹ. Quang cảnh
cũng thật sáng sủa tươi mát.”
Tôi
cười buồn: “Chúng con mới mua năm ngoái
và chắc cũng sắp bán…” Giọng mẹ thảng thốt: “Tại sao thế?” Tôi nắm cánh tay mẹ dìu đi: “Mẹ vào nhà nghỉ ngơi. Từ từ rồi mẹ sẽ biết...”
Tôi
bấm số liên hợp và mở toang cánh cửa. Mẹ bước vào, đứng sững người trên tấm thảm
nhỏ mang chữ Welcome. Dường như mẹ không tin những gì mẹ đang thấy. Mẹ ngập ngừng
bước đi, mắt dừng lại từng vật trang trí ở phòng khách, phòng gia đình, miệng lẩm
bẩm lời tán thưởng.
Khi
mẹ hướng về khu bếp, tôi biết mẹ sẽ ở đây lâu hơn nên lặng lẽ trở ra ngoài mang
hành lý vào nhà. Khóa cửa xong, tôi đảo mắt tìm mẹ. Bà đang ở trong phòng đọc
sách, đứng lặng yên trước bàn thờ. Mẹ không nhìn các tượng Phật rất đẹp tôi thỉnh
tận Thái Lan.
Mắt
mẹ đang đăm đăm nhìn di ảnh của Huy. Anh mặc áo tiểu lễ hải quân với dây biểu
chương, trên một nắp túi là chiếc huy hiệu hạm trưởng và bảng tên Lê Quang Huy.
Bên kia là hai hàng huy chương nhiều sắc màu khác biệt. Và Huy đang tươi cười…
Mẹ nói bằng giọng ngạc nhiên mà bình thản: “Sao
con không nói gì với mẹ?” Tôi lắc đầu: “Để
làm gì? Mẹ có biết gì về ảnh đâu và chắc cũng không ưa ảnh!”
Mười
lăm năm trước, khi về chịu tang ba tôi, tôi đã từ chối trả lời mọi câu hỏi của
mẹ. Tôi muốn cho thấy khi bà đã có can đảm bỏ rơi tôi thì tôi cũng có can đảm
coi như đời tôi không dính dáng gì tới bà. Mãi gần đây, khi mẹ ngỏ ý muốn qua
thăm chúng tôi, Huy khuyên tôi nhận lời, dù gì bà cũng là người sinh thành ra
mình. Tôi nghe lời khuyên nhưng chỉ một mình tiếp đón mẹ. Huy chết bất thần vì
cơn đột quỵ. Mẹ nhìn khắp bàn thờ rồi quay phắt sang tôi: “Sao không thấy con thờ ba con?”
“Thờ ba? Tại sao con
phải thờ ba?”
Mặc dù đã tự nhủ, tôi vẫn không dằn được cơn bực tức bùng vỡ. Mẹ quay đi, lặng
lẽ thắp nén nhang cắm vào lư hương, nhìn Phật Bà, nhìn Huy rồi thở dài lặng lẽ
bước lên thang lầu.
Tôi
đã từng nghe nhiều tiếng thở dài tương tự của mẹ trong suốt thời gian mười ngày
về dự đám táng ba tôi. Tôi đã cho bà thấy tôi không chỉ dửng dưng với người chết
mà còn lạnh lùng với cả người còn sống. Liệu có ai cư xử khác tôi khi suốt
quãng đời dài gần bốn mươi năm mà chỉ vài lần được nghe nhắc đến mẹ cha mình bằng
lối bông đùa.
Năm
tôi lên mười bốn, sau trận Mậu Thân khói lửa khắp Chợ Lớn Sài Gòn, một bữa, lần
đầu tôi nghe cậu nhắc tới ba mẹ. Trong bộ đồ trận rằn ri mang lon trung tá, cậu
ra vẻ trịnh trọng: “Nè, Phượng! Con có biết
là suýt nữa con đã có dịp trùng phùng ba mẹ con không?” Trong khi tôi tò mò
lắng nghe, cậu tỉnh bơ tiếp: “Nhưng vì cậu thấy họ không xứng đáng làm bậc
cha mẹ, cậu đã đuổi họ về mật khu rồi!”
Tôi
thường cười với mỗi cợt đùa của cậu nhưng lần đó tôi mím môi muốn khóc. Năm hai
mươi mốt tuổi, khi tôi đưa Huy về nhà giới thiệu nhân buổi tiệc mừng cậu thăng
cấp tướng, cậu nói nhỏ vào tai tôi: “Chà
chà! Như vầy là kẹt cậu rồi! Con mà chọn tên hải quân đó làm chồng thì cậu khốn
khổ với chị cậu. Tuy nhiên, nếu con… năn nỉ cậu, cậu cũng liều cho con làm… bà
thiếu tá.”
Tôi
vẫn cười thầm về chuyện này vì bốn tháng sau, sự thể đảo ngược. Chính cậu lại
là người phải “năn nỉ” tôi để cả gia đình được lên tàu của Huy rời khỏi Việt
Nam. Chúng tôi thành hôn ở Mỹ. Huy trở lại đại học, tôi đi làm ngày đêm. Rồi lần
lượt hai đứa con ra đời. Huy ra trường đi làm. Tôi vào đại học. Vất vả mà hạnh
phúc. Tôi quá bận rộn để nhớ về quê cha đất tổ, cho tới mười năm sau tôi mới lại
nghe tin tức ba mẹ. Lại vẫn do cậu đưa tin. Cậu tôi cho biết đã liên lạc được với
chị của mình.
Không
lâu sau đó tôi liên tiếp nhận được thư ba mẹ tôi bày tỏ lòng khao khát mong nhận
được thơ tôi và hình ảnh gia đình. Và tiếp đến là những lá thư mong mỏi tôi về
Việt Nam. Tôi nhận thư, tôi đọc, lòng ngơ ngẩn, bâng khuâng nhưng không có chút
hứng thú trả lời.
Thậm
chí nhiều năm sau, cái tin ba tôi đau nặng cũng chỉ được đón nhận với lòng dửng
dưng. Huy bảo tôi nên về. Cậu mợ gọi điện bảo tôi phải về. Tôi thưa với cậu mợ
rằng tôi không có cha mẹ nào khác ngoài cậu mợ nhưng cậu mợ tiếp tục thúc bách
và giảng đạo lý. Tôi rủ cậu mợ cùng về. Cậu bảo cậu không muốn giỡn mặt với
chính quyền cộng sản.
Cuối
cùng tôi khăn gói một mình lên đường. Thời điểm này chúng tôi còn nghèo nên Huy
đành ở lại với hai con. Nhưng đoạn đường quá xa để ba tôi không thể chờ. Ông
vĩnh viễn ra đi vài giờ trước lúc tôi bước vào ngôi nhà xưa. Dù vậy tôi vẫn còn
kịp nhìn mặt ba tôi. Nhìn chỉ một lần mà vẫn đủ để khuôn mặt già nua, khắc khổ,
hoàn toàn xa lạ đó theo tôi về tận xứ Mỹ.
Thỉnh
thoảng nhân một liên tưởng về dòng họ ai còn ai mất, khuôn mặt của ông lại hiện
ra cùng với những tiếng thở dài của mẹ. Thế mà tuyệt nhiên, tôi không hề nghĩ đến
việc thờ phượng ông…
***
Mẹ
nằm trong buồng riêng suốt đêm ngày, mãi đến tối hôm sau mẹ mới tươi tỉnh hẳn.
Tôi rủ mẹ đi ăn đồ biển. Mẹ ăn tự nhiên, ngon lành. Nếm đủ tôm cua nghêu sò ốc
hến. Luôn cả hào tươi. Lâu lắm mới có dịp ăn ngoài, tôi cũng tận lực nuốt. Trên
đường về nhà, mẹ hỏi: “Cậu bảo con có hai
thằng con trai. Chúng nó đâu mà mẹ chưa gặp?”
“Tụi nó đều đã lập
gia đình. Mỗi đứa ở mỗi tiểu bang khác nhau, khá xa. Đứa lớn ở Georgia, có hai
con, đứa nhỏ ở Texas, đang chờ con đầu lòng. Con đã sắp xếp để mẹ đến chơi với
chúng nó, mỗi đứa vài ngày, sau khi mẹ gặp cậu mợ.”
Mẹ
nhìn tôi, dò hỏi: “Con ở đây một mình
sao?” Tôi gật đầu: “Vì vậy mà con có
ý muốn bán nhà này về sống với mấy đứa nhỏ, luân phiên mỗi đứa một thời gian. Tụi
nó đang năn nỉ con về ở chung.” Giọng mẹ ngập ngừng: “Phải thú nhận rằng mẹ vừa trông thấy căn nhà này là mê ngay. Nếu con
bán thì bán cho mẹ. Mẹ con ta sẽ ở đây, mãi mãi tới ngày mẹ chết…”
Tôi
đăm đăm nhìn mẹ. Tôi đã biết từ lâu là mẹ rất giàu, chỉ ngạc nhiên về ý cuối.
Nó đến quá bất ngờ như là một nhánh gai quẹt vào người. Tôi nghe xót đau, khó
chịu. Tôi không chuẩn bị việc này, cũng không muốn nó xảy ra. Đầu óc tôi đông cứng.
Chợt
hình ảnh Huy hiện ra, miệng cười cười. Ba tháng nay, từ ngày anh mất, khi tôi gặp
điều gì khó xử là anh lại hiện về. Nụ cười của anh luôn luôn giúp tôi tìm giải
pháp. Tôi thấy bao nhiêu phiền phức nếu cho mẹ ở chung. Tôi đã quen với cuộc sống
không có mẹ. Chỉ mới hai mươi bốn tiếng đồng hồ “có mẹ” mà tôi đã chịu đựng biết
bao gượng ép. Mẹ nhìn tôi dò hỏi. Tôi nói: “Con
mới mất anh Huy. Con cần một thời gian yên tĩnh.”
“Mẹ cũng cần có thời
gian sắp xếp mọi việc ở Việt Nam. Năm tới mẹ trở qua sống hẳn với con. Con đồng
ý chứ?”
Tôi không biết nói gì hơn. Tôi như nghe tiếng Huy văng vẳng: “Đừng làm mẹ buồn!” Tôi cố nhìn vào bóng
đêm loang loáng tìm hình bóng Huy nhưng chỉ thấy ánh đèn đỏ vừa bật ở ngã tư…
***
Sau
năm ngày dạo chơi phố xá và ngắm cảnh Nữu Ước, chúng tôi dành hai đêm thử thời
vận ở sòng bạc Atlantic City. Thánh nhân đãi kẻ khù khờ, cả hai mẹ con thắng lớn.
Chúng tôi về đến nhà, tẩy rửa xong lớp bụi đường thì trời tối hẳn. Tôi thấy mệt
mỏi nhưng mẹ tỉnh bơ đề nghị để mẹ nấu ăn ở nhà. Tôi nói sẽ ăn ở nhà nhưng mẹ
khỏi nấu.
Mẹ
không tỏ gì ngạc nhiên khi tôi gọi thức ăn bằng điện thoại. Bà ngồi thoải mái
trong bộ ghế êm ái, xem truyền hình đưa tin thế vận hội. Tôi sắp đặt chén đũa,
khăn ăn và nước ngọt rồi ngồi xuống cạnh mẹ. Chợt mẹ quay sang tôi, giọng ngập
ngừng thiếu tự nhiên: “Mẹ phải nói với
con chuyện này. Em trai con muốn nhờ mẹ hỏi con giúp nó một việc.”
Em
trai tôi? Tôi từ từ hình dung đứa em trai của mình. Tôi đã nhớ ra một hình dáng
hiền hòa thường quanh quẩn gần tôi. Cũng như cậu và mẹ, em tôi nhỏ thua tôi năm
tuổi. Nhưng nó khác với tất cả chúng tôi là đã không chào đời ở miền Nam. Tôi
nhìn mẹ chờ đợi. Giọng mẹ đều đều:
“Đứa con gái út của
nó học rất giỏi. Năm tới lên đại học. Nó muốn nhờ con giúp cháu qua học bên
này. Nó không muốn cho cháu ở nội trú. Nó xin cho cháu ở với con. Cơ bản là con
không phải tốn kém gì hết. Mẹ sẽ lo đi chợ, nấu ăn cho cả nhà...”
Cơn
giận chợt ứ lên ngực làm tôi khó thở. Tôi hít vào một hơi thật sâu. Tôi biết là
mở miệng lúc này tôi sẽ nói ra lời cay độc. Tôi nhìn ra ngoài trời đang đổ mưa
với những ánh chớp liên hồi. Tôi nhớ tới những cơn mưa đầy sấm sét trong căn
nhà thênh thang thuở lên mười.
Thuở
đó cậu tôi đổi đi đơn vị xa và mợ theo cậu. Người giúp việc thì ngủ gần bếp, xa
căn buồng riêng biệt của tôi. Tôi đã vô cùng sợ hãi và từng ước ao có được một
đứa em. Bây giờ tôi đâu còn cần. Tôi nói chầm chậm: “Thì ra mẹ qua đây không phải vì con mà vì tương lai cháu nội của mẹ!”
Bà
nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên: “Con nói gì lạ
vậy. Tất nhiên mẹ qua đây là vì con, bởi vì mẹ muốn bù lại thời gian ba mẹ bỏ
bê con. Mẹ không hề vì cháu nội. Nó chỉ ngỏ lời sau khi biết ý định của mẹ.”
Tôi
cười chua xót, không còn ngăn được lời mai mỉa: “Ruột thịt? Có là ruột dư với thịt thừa! Và mẹ đã từng cắt bỏ không
thương tiếc!” Mẹ nhìn tôi đăm đăm: “Con
vẫn còn giận mẹ đến thế sao? Lần con về, mẹ đã hết lời giải thích…”
“Con vẫn nhớ các lời
giải thích đó: Ba mẹ đâu có muốn xa con, chẳng qua chỉ vì muốn góp phần giành độc
lập, thống nhất đất nước. Thì đất nước đã độc lập thống nhất, sao mẹ và cháu nội
không ở Việt Nam mà hưởng.”
“Mẹ phải làm gì để được
con tha thứ, quên đi chuyện cũ. Con nghĩ lại đi. Ba mẹ đâu có gửi con cho ai xa
lạ. Người đó chính là ba mẹ ruột của mẹ. Con lúc nào cũng nhận được trọn vẹn
tình thương và chăm sóc…”
Tôi
cố giữ giọng bình thường: “Ba mẹ ruột của
mẹ chớ đâu phải ba mẹ ruột của con! Suốt tuổi thơ của con, con bị bạn bè cười
nhạo là đứa trẻ mồ côi, là con không cha không mẹ!” Nước mắt tôi tự dưng ứa
ra, rơi dài xuống. Mẹ đứng lên, bước lại ôm choàng lấy tôi. Tôi khóc nức nở
trên vai mẹ. Khi muộn phiền đã dịu xuống, tôi nhìn thẳng vào mắt mẹ:
“Mẹ không thấy là mẹ
không công bằng sao? Lúc con ở cái tuổi rất cần sự săn sóc của ba mẹ thì ba mẹ
bỏ đi biền biệt. Còn bây giờ, khi mẹ muốn ở gần con thì mẹ đã bước vào cái tuổi
gần đất xa trời, cái tuổi mẹ cần con chớ con không cần mẹ. Thật lòng mà nói,
cho tới giờ phút này, con không một mảy may cảm thấy chút gì thương yêu mẹ, thì
nói chi thương yêu cháu.”
Mẹ
ôm mặt, thân hình thả rơi lên ghế. Tôi nghe tiếng nấc của mẹ và nghe lòng chùng
xuống. Tôi nói nhanh như sợ không còn nói được: “Nhưng có điều chắc chắn là con cũng không thể chối bỏ mẹ không phải là
mẹ của con. Chừng nào mẹ muốn ở với con, mẹ cứ ở. Chừng nào mẹ muốn đi, mẹ cứ
đi. Điều em con muốn, cháu con muốn, con khó mà nói được lời từ chối!
Mẹ
vẫn ngồi yên, thút thít khóc. Đúng lúc tôi muốn ngồi xuống ôm lấy mẹ thì tiếng
chuông reo. Tôi thở hắt ra, bước về phía cửa nhận thức ăn mang tới…
***
Rời
San Francisco trên chiếc xe chở khách chúng tôi ôn lại những địa điểm đã viếng
thăm qua ba ngày ở vùng vịnh. Mẹ tỏ vẻ hài lòng đã được chính mắt chiêm ngưỡng
chiếc cầu nổi danh Golden Gate. Mẹ cũng yêu thích cái công viên cùng tên với
khung cảnh nên thơ thanh bình mà mẹ gọi là hồ Tịnh Tâm.
Hai
ngày ở San Jose, ấn tượng nhất đối với mẹ là những hình ảnh sinh động, huy
hoàng và lạ mắt của vô số loài sống dưới nước hiển hiện ngay trước mắt trong
Monterey Bay Aquarium. Khi chúng tôi về tới quận Cam. Cậu và các con cháu đón
chúng tôi ở bến xe, chỉ thiếu có mợ.
Khi
tôi thông báo mẹ sẽ sang thăm gia đình cậu, cậu nói sẵn sàng gặp mẹ nhưng từ chối
cho chúng tôi tạm trú. Nhà cậu mợ rất rộng, nhiều buồng ngủ. Vợ chồng con cái
tôi mỗi khi qua Cali là ở nhà cậu mợ hà rầm. Cậu mợ hẳn phải đau lòng khi lần
này để tôi ở khách sạn chỉ vì… có mẹ!. Mợ không muốn chứa mẹ trong nhà. Hai đứa
em trai của mợ đều bị tập trung, một bỏ xác trong rừng Yên Bái.
Mỗi
ngày trong suốt một tuần, cậu lái xe đến khách sạn đón chúng tôi đi viếng thăm
hết nơi này đến nơi khác. Ngày đầu, cậu dành cho khu Little Saigon. Mẹ thú nhận
là rất ngạc nhiên về mức phát triển quy mô và sự phồn vinh sang giàu của người
Việt tỵ nạn.
Những
ngày kế dành cho danh lam thắng cảnh. Có ngày chúng tôi bay khỏi thành phố đỏ
đen Las Vegas về phía Bắc để chiêm ngưỡng Grand Canyon vô cùng kỳ vĩ ngoạn mục.
Cậu
thường dùng khoảng thời gian di chuyển để hỏi mẹ về gia đình và dòng họ ở quê
nhà. Cậu cũng kể về cuộc đời của cậu trong suốt nửa thế kỷ không gặp chị. Tôi
vô cùng thú vị được nghe hai chị em nhắc lại những kỷ niệm thời họ sống bên
nhau. Thỉnh
thoảng cậu và mẹ “đụng” nhau về đề tài chính trị thường là do cậu khởi xướng. Một
lần đang lái xe, cậu bỗng nhái cái giọng bắc của mẹ:
“Thật đáng tiếc! Nếu chị cả đừng… vớ phải cái ông trí ngủ nằm vùng thì
giờ chị em gặp lại dung dăng dung dẻ biết bao!”. Mẹ nở ngay nụ cười đáp trả:
“Thì cũng lỗi ở em. Phải chi em không làm
tay sai cho Mỹ Ngụy”. Cậu gật gù ra vẻ tán thưởng rồi bắt sang chuyện khác.
Hôm
đứng trước trường đại học danh tiếng Standford, cậu cười nói: “Tham quan trường này chị có nhớ đến những
năm chị dạy ở trường Đảng không? Phải công nhận duy vật biện chứng pháp hay tuyệt.
Đảng Cộng sản chủ trương “không có người bóc lột người”. Thế mà ngày nay bản
thân Đảng hóa thành “đảng bóc lột người”. Y chang… hủy thể của hủy thể!” Mẹ
bật cười giòn tan: “Đúng ra là… phủ định
của phủ định!”.
Một
buổi tối về khách sạn còn sớm, cậu lân la ở lại. Không biết dẫn dắt từ đề tài
gì, hai chị em bắt đầu bàn về Hoàng Sa, Trường Sa và sự hiếp đáp của Trung cộng.
Bỗng cậu đặt câu hỏi:
“Ông Bush hứa với ông Dũng là sẽ ủng hộ sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Vậy giả sử Trung cộng tấn công Việt Nam và Mỹ đem quân qua giúp đánh lại Trung cộng, thì đối với hai quân đội ngoại nhập đó, theo chị thì phải gọi là gì? Tàu là quân xăm lăng, Mỹ là bọn xâm lược?” Mẹ cười duyên dáng: “Gọi thế là…đúng sách vở đấy”.
“Ông Bush hứa với ông Dũng là sẽ ủng hộ sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Vậy giả sử Trung cộng tấn công Việt Nam và Mỹ đem quân qua giúp đánh lại Trung cộng, thì đối với hai quân đội ngoại nhập đó, theo chị thì phải gọi là gì? Tàu là quân xăm lăng, Mỹ là bọn xâm lược?” Mẹ cười duyên dáng: “Gọi thế là…đúng sách vở đấy”.
Vào
ngày thăm viếng Getty Center, một công trình chi phí hàng tỷ đô la, vừa đồ sộ về
kiến trúc tân kỳ, vừa là viện bảo tàng nghệ thuật cổ vật hàng thế kỷ, lại vừa
quy mô về tổ chức, tất cả chi phí do nhà tỷ phú Paul Getty đài thọ, cậu tôi bất
ngờ hỏi mẹ:
“Nghe đâu chị đang là
tỷ phú đỏ. Ngày xưa chị chống Mỹ cứu nước, ngày nay nhà tỷ phú Việt Nam đổi mới
đã đóng góp được gì để dựng nước?” Mẹ cười: “Chị
đang cho xây Đại Nam Quốc Tự thứ nhì. Hôm nào khánh thành chị sẽ mời em về dự”.
Cậu cười ra vẻ đắc ý: “Xin hỏi lần này chị
đặt ông Hồ ngồi ở đâu?”
Tôi
nhớ vừa đọc tin tức gần đây nói về ngôi chùa vĩ đại mới xây xong có đặt ba bức
tượng từ thấp lên cao: Hồ Chí Minh, Khổng Tử, Phật Thích Ca. Tôi lo âu chờ câu
trả lời. Mẹ nhởn nhơ: “Em về thì biết”.
***
Đêm
chót trước khi rời Quận Cam trở lại Maryland chúng tôi được cậu mời một bữa tiệc
cá 7 món, đặc sản Cali. Khi chúng tôi đến nhà hàng, tôi thật sự ngạc nhiên và
vui mừng khi thấy có cả mợ hiện diện. Mợ đứng lên vui vẻ chào hỏi và mời mẹ ngồi
bên cạnh. Mợ vốn hoạt bát, nên mẹ lúc nào cũng cười tươi. Tôi cảm thấy vô cùng
hạnh phúc. Lúc chờ tính tiền cậu hỏi mẹ bao giờ về Việt Nam. Mẹ bảo còn lâu,
khoảng sáu tháng nữa. Và năm tới có thể là qua ở luôn. Cậu gật gù nhìn mẹ rồi
nhìn tôi. Tôi tưởng cậu tán thành quyết định của mẹ nhưng cậu chậm rãi nói:
“Phải nói là rất ngạc
nhiên khi nghe chị tính qua Mỹ ở luôn. Chị biết không ông Hồ Chí Minh có làm một
câu thơ rất nổi tiếng: đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào! Ba mươi ba năm qua,
Ngụy đã nhào Mỹ đã cút. Thế mà giờ đây có người đánh đuổi Mỹ lại muốn… cút theo
Mỹ!” Tôi
bật cười nhưng kịp hãm khi thấy mặt mẹ sa sầm…
Về
Maryland, theo dự trù chúng tôi nghỉ ngơi ba ngày trước khi bay xuống Georgia
và Texas. Nhưng chỉ mới qua đêm, buổi sáng mẹ buồn rầu đổi ý. Mẹ muốn về ngay
Việt Nam. Tôi ngỡ ngàng. Nhưng tôi chợt hiểu ra. Câu trêu chọc của cậu đã chạm
tự ái mẹ.
Xa
nhau quá lâu, mẹ không quen tính tình em mình. Cợt đùa, đốp chát vô tội vạ là
thói quen của cậu. Hiểu cậu thì không ai giận cậu. Không hiểu cậu, giận cậu thì
ráng chịu. Cậu nói đó rồi quên đó. Tuy nhiên tôi vẫn không muốn thay cậu ngỏ lời
xin lỗi mẹ. Tôi cũng không có ý định van xin mẹ khoan vội về Việt Nam. Tôi biết
chắc nếu tôi năn nỉ, mẹ sẽ ở lại.
Gần
tháng qua tôi đã cảm thấy chút gì gần gũi mẹ nhưng xem ra vẫn còn một bức vách
vô hình ngăn cản sự thoải mái, tự nhiên, thân mật. Thậm chí còn có cái gì khác
nữa khiến tôi có lúc bứt rứt, bực mình. Không có mẹ, tôi ngủ nghê, ăn uống thế
nào lúc nào tùy thích. Có mẹ, tôi phải hầu hạ, e dè, trông trước ngó sau. Mẹ ở
lại lần này, lần tới sẽ ở lại mãi mãi. Mà xem ra thời gian để xây đắp tình mẫu
tử chẳng còn bao nhiêu.
Luật
đời vốn trói buộc tôi vào kiếp nạn mồ côi từ đầu đời. Có gặp lại cha thì chỉ
khi cha mất. Gặp lại mẹ thì mẹ lại bỏ đi. Thôi thì hãy coi mươi ngày bên mẹ đã
là một hồng ân. Phải mất một tuần tôi mới đổi được vé máy bay. Trong tuần cuối
đó, mẹ chỉ thích đi mua sắm. Mỗi ngày tôi đưa mẹ vào một trung tâm thương mại
khác nhau. Ăn thì mỗi bữa một nhà hàng khác xứ. Mẹ đã thưởng thức các món ăn Mỹ,
Nhật, Thái, Đại Hàn, Mã Lai, Nam Dương. Đêm cuối cùng, tôi hỏi mẹ có muốn ăn phở
lần chót ở Mỹ không, mẹ cười bảo muốn ăn canh chua cá kho tộ. Tôi thấy chút ấm
lòng…
Hôm
đưa mẹ ra phi trường, chúng tôi im lặng suốt đoạn đường. Gửi xong hành lý, tôi
kéo chiếc va ly, tay kia nắm bàn tay mẹ bước chầm chậm về trạm kiểm soát an
ninh cá nhân. Khi gần đến dòng người ngoằn ngoèo chờ qua trạm, mẹ dừng lại. Tôi
nhìn mẹ dò hỏi. Ánh mắt mẹ ngập tràn âu yếm mà giọng cất lên trầm buồn: “Chắc mẹ sẽ không qua đây thăm con nữa.” Tôi
nghe xao xuyến nhưng vẫn lặng thinh. Lời mẹ êm như tiếng thở dài: “Và khi mẹ chết, con cũng không cần phải về…”
Tôi
đứng chết lặng. Tôi có cảm tưởng như tôi đã cư xử quá tệ hại với chính mẹ mình.
Ý nghĩ trở thành đứa con bất hiếu khiến tôi buột miệng: “Mẹ! Con sẽ về. Thế nào con cũng về. Cậu đã dạy con nghĩa tử là nghĩa tận.”
Bà
vòng tay ôm lấy tôi thật chặt, giọng êm đềm: “Còn đây là lời mẹ dạy, lần đầu mà cũng là lời cuối. Con hãy luôn luôn
ghi nhớ: “Chú như cha, cậu như mẹ”. Con gắng giữ sức khỏe. Thôi mẹ đi.”
Mẹ
nắm chiếc cần va ly từ tay tôi. Tôi vụng về ôm lấy mẹ. Mẹ áp má vào má tôi. Tôi
nghe chừng thân mình bay bổng. Khi tôi mở vòng tay, mẹ quay mặt bước đi. Tôi thấy
mình quá bất nhẫn, khẽ gọi: “Mẹ!”
Bà
quay lui, chân vẫn bước, đôi mắt hiền từ. Tôi lúng túng vẫy tay, cố nở nụ cười:
“Chào mẹ!”
***
Xin anh Chính cho phép tôi đăng lại bài này ở: https://nuocnha.blogspot.com/
Trả lờiXóa