Trên
bước đường lưu lạc giang hồ tứ xứ, nhà thơ “chân
quê Bắc bộ” Nguyễn Bính (1918–1966) đã “trôi
dạt” xuống Miền Trung, vào tận Sài Gòn và rồi đến vùng sông nước Lục tỉnh.
Từ đó, thi đàn nước Việt có thêm một “Nguyễn
Bính Miền Nam” bên cạnh một Nguyễn Bính cúa làng quê Miền Bắc.
Đầu tiên, Nguyễn Bính tỏ ý muốn đến Huế để tìm đề tài sáng tác. Gia đình ông không được khá giả cho lắm nên đã bán một số vật dụng, trong đó có một chiếc máy ảnh, để Nguyễn Bính dùng làm… “lộ phí giang hồ”.
Đến Huế,
Nguyễn Bính gửi thơ về Hà Nội đăng báo, trong số đó có những bài “Xuân Tha Hương” và “Oan Nghiệt”… Trong thời gian ở Huế, Nguyễn Bính đã làm một số thơ
tuyệt hay, sau này tập hợp lại trong tập “Mười
Hai Bến Nước”.
Nhân ngày Tết, Nguyễn Bính viết bài “Xuân Tha Hương” gửi cho người chị họ tên Trúc với những vần thơ thấm đẫm nỗi lòng của kẻ xa quê:
“Tết này chưa chắc em về được
Em gửi về đây một tấm lòng
Ôi, chị một em, em một chị
Trời làm xa cách mấy con sông
Em đi trăng gió đời sương gió
Chị ở vuông tròn phận lãnh cung
Chén rượu tha hương, giời: đắng lắm
Trăm hờn nghìn giận một mùa đông
Chiều nay ngồi ngắm hoàng hôn xuống
Nhớ chị làm sao, nhớ lạ lùng!...”
Qua bài “Màu Tím Huế” người yêu của Nguyễn Bính
không còn là hình ảnh chất phác, mộc mạc của một cô gái quê Miền Bắc. Thay vào
đó là hình ảnh nên thơ màu tím hữu tình của đất Thần Kinh:
“Thôi thế là em cách biệt rồi!
Đường đi mỗi bước lại xa xôi
Tim tím rừng chiều, tim tím núi
Tim tím chiều hôm, tim tím mai
“Ban chiều tim tím nhớ mong nhau
Đêm tối kìa em tím rất nhiều
Anh cúi xuống hôn màu tím giấy
Thư về em, tím nét thương đau…
“Mai mốt rồi đây lầm cát bụi
Anh lại đường xa trải kiếp người
Tim tím rừng chiều, tim tím núi
Chiều hôm nhiều tím thế em ơi!
Vào đến Sài
Gòn, Nguyễn Bính có dịp được chiêm ngưỡng “Hòn
ngọc Viễn đông”. Trong thời gian này ông đã gặp nhà thơ Đông Hồ, Kiên
Giang… thậm chí có lúc ông cư ngụ ngay trong nhà Kiên Giang. Đó là thời ông viết
những bài như “Hành Phương Nam”, “Tặng
Kiên Giang”, “Từ Độ Về Đây”…
Khi còn ở Hà Nội, Nguyễn Bính chơi thân với Thâm Tâm và Trần Huyền Trân. Thâm Tâm, nhà thơ bậc thầy về thể loại hành, vào năm 1940 có sáng tác một bài hành nổi tiếng là bài “Tống Biệt Hành”.
Thâm Tâm còn sáng tác thêm một số bài hành nữa cũng rất hay như “Can Trường Hành”, “Vọng Nhân Hành” vào năm 1944. Có lẽ điều này đã kích thích Nguyễn Bính thử sức với một thể thơ không quen thuộc lắm với ông chăng?
“Hành Phương Nam” là một bài thơ dài, làm nhân dịp Tết xa nhà, vời lời đề tặng “Gửi Văn Viễn” được mở đầu như sau:
“Đôi ta lưu lạc phương Nam
này
Trải mấy mùa qua én nhạn
bay
Xuân đến khắp trời hoa rượu
nở
Mà ta với người buồn vậy
thay
“Lòng đắng sá gì muôn hớp
rượu
Mà không uống cạn mà không
say
Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã
Mà áo khinh cừu không ai
may…
Bài thơ “Hành Phương Nam” được viết tại Ða Kao
năm 1943. “Hành” là đi, bài thơ nói về
chuyến đi vào Nam nhưng “hành” cũng
là một thể thơ nói cái chí khí, cái ước nguyện lớn lao, chứa đựng nỗi niềm u uất,
cảm khái của người viết.
Trong “Hành Phương Nam” Nguyễn Bính không còn là thi sĩ nữa, ông là tráng sĩ, lời thơ là tiếng lòng bi phẫn thoát ra từ một kiếp người:
“Ta đi nhưng biết về đâu chứ
Ðã dấy phong yên lộng bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi
Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
Dằn chén hất mạnh đầu cỏ dại
Hát rằng phương Nam ta với ngươi
Ngươi ơi! Ngươi ơi! Hề ngươi ơi!
Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi…”
Một bài thơ
khác của Nguyễn Bình cũng thuộc loại “hành”,
cũng viết ở Sài Gòn: “Ái Khanh Hành”.
Bài thơ lại mang một sắc thái mới lạ pha lẫn chút âm hưởng của dòng thơ tự do
qua lối gieo vần lạ lẫm:
“Chao ơi!
Em ngon như rau cải
Em ngọt như rau ngót
Em giòn như cùi dừa
Em hiền như nước mưa
Em nhổ nước bọt xuống mặt biển
Mặt biển thơm lên hai mươi bốn giờ!’
Vẫn là đề
tài tình yêu, vẫn có mô-típ cũ em là “hoàng
hậu” và anh là “vua” kết thành vợ
chồng. Hai chữ “ái khanh” cũng rất
cũ, song cũng có hơi hướng cải lương của Nam bộ. Nhưng giọng điệu của bài thơ
viết theo lối hành này thì lại rất lạ, như kiểu nói của người Nam bộ thẳng
băng, dứt khoát.
Nhưng đặc biệt nhất trong bài là đoạn so sánh người yêu viết rất khác, khác đến sửng sốt, so với thơ Nguyễn Bính chúng ta đã quen và cách nói kiểu này chỉ có ở thơ ông khi ông đã vào Nam.
Giọng thơ của ông đã hào sảng hẳn lên cả khi nói về tình yêu, chứ không còn nỉ non, than vãn não nùng như ngày nào. Nguyễn Bính lưu lạc vào Nam đã tự phát hiện lại chính mình và cho người đọc phát hiện mới về mình.
Trong bài “Lá Thư Về Bắc” gửi cho người anh họ, nhà thơ Bùi Hạnh Cẩn, Nguyễn Bính đã nhắc lại buổi Nam Chinh của mình:
“Lẻ loi thân nhạn sang Nam ấy
Biết có làm nên công cán gì?”
Đến khi tới
Sài Gòn, ông thấy mình như con chim non:
“Bơ vơ trong xứ người xa lạ
Rộn những phồn hoa, em chạnh buồn”
Nhưng Sài
Gòn và đất Phương Nam đã cho ông một tin tưởng, một hy vọng, điều rất khó thấy
trong thơ ông trước đó.
“Rồi men tráng lệ kinh thành ấy
Từ đấy in thêm bóng một người
Bóng một nhà thơ đầy nguyện vọng
Giàu lòng tin tưởng bước tương lai”
Vào Nam, điều
đầu tiên ông thấy là khí hậu, trời đất khác hẳn đất Bắc, ngay cả phong tục cũng
khác như trong bài “Xuân Về Nhớ Cố Hương”:
“Xuân về chẳng có hoa tươi
Nắng luôn cả sáu tháng trời không mưa
Người ta ăn tết buồn chưa
Rượu bia hoa giấy và dưa đỏ lòng
Ba ngày tết nóng như nung
Hỏi phong vị ấy là phong vị gì?”
Bài “Nam Kỳ Cũng Gió Cũng Mưa” viết tại Sài
Gòn năm 1943 khiến người yêu thơ hiểu rõ hơn về thời tiết trong Nam:
“Nam Kỳ cũng gió cũng mưa
Đêm đêm đắp đổi cũng vừa chăn bông
Mình đi trăm núi ngàn sông
Ngờ đâu mang cả lạnh lùng sang Nam
Những ai đón bạc, đưa vàng:
Những ai đan áo ngự hàn ngày xưa
Những ai mảnh quạt đề thơ
Những ai? Ai đó? Bây giờ những ai?”
Dần dần ông
nhập cuộc vào đời sống Sài Gòn. Từ một người yêu xóm đạo ở Lan Chi Viên, Nguyễn
Bính đã khóc trước ảnh Chúa và tiếng chuông nhà thờ để rồi trong cơn tuyệt vọng
người yêu phải lên xe hoa. Ông đã nghĩ tới một Chúa khác của lòng mình hòng bấu
víu, nương tựa trong bài thơ “Chuông Ngọ”:
“Cái hôm hắn bước lên xe cưới
Khóc lả người đi, Chúa biết không?
Chúng con ngoại đạo và ngoan đạo
Vẫn biết và tin có “Chúa lòng”
Từ Jesus
Christ của Thiên Chúa giáo, nhà thơ đã tạo ra một “Chúa lòng” của Ái Tình mà tất thảy những người yêu nhau đều là những
tín đồ ngoan đạo của vị Chúa này. Và trước “Chúa
lòng” đôi người yêu dẫu bị xa nhau nhưng vẫn thuộc về nhau.
Xuống đến
Nam Kỳ Lục tỉnh, nhà thơ Nguyễn Bính đã dán thơ trước cửa túp lều của mình ở Rạch
Giá năm 1947. Những vần thơ khí phách, bất cần đời:
“Từ độ về đây sống rất nghèo
Bạn bè chỉ có gió trăng theo
Những thằng bất nghĩa xin đừng đến
Hãy để thềm ta xanh sắc rêu”
(Từ độ về
đây)
Tiến thêm một
bước nữa là những bài thơ viết ở Ðồng Tháp Mười trong những ngày đầu kháng chiến
mà Nguyễn Bính đã dừng chân lưu lạc giang hồ để tham gia. Thơ Nguyễn Bính lúc
này khác hẳn lối thơ ngày trước của ông ở lối ngắt câu, ngắt đoạn, ở nhịp thơ tự
do.
“Bông súng ngoài đồng
Bầm gan tím mặt
Nước phèn chua chát
Lắng nỗi đau thương
Đốc binh Kiều, Thiên hộ Dương
Bóng cờ khởi nghĩa mờ trong gió sương…”
(Đồng Tháp
Mười, 1949)
Bài thơ “Cửu Long Giang” xuất hiện lần đầu năm
1950, hồi đó nhà thơ Nguyễn Bính đang là cán bộ tuyên truyền Khu 8. Bài thơ đã
nhanh chóng chiếm được cảm tình của các chiến sĩ sau này trở thành bài hát “Tiểu đoàn 307”, được nhạc sĩ Nguyễn Hữu
Trí phổ nhạc.
“Ai đã từng qua Cửu Long Giang
Cửu Long Giang sông trào nước xoáy
Ai đã từng nghe tiếng Tiểu đoàn
Tiếng Tiểu đoàn Ba trăm lẻ bảy
Buổi xuất quân Tiểu đoàn năm ấy
Cả Tiểu đoàn thề dưới sao vàng
Người chiến sĩ tiếc gì máu rơi…
Đoàn quân lẻ bảy
Kể từ hôm ấy
Đánh đâu được đấy
Oai hùng biết mấy…”
Thì ra Nguyễn
Bính không chỉ là nhà thơ của tình quê, hồn quê. Ông không chỉ ngồi tương tư cô
hàng xóm, nhớ cô lái đò, khóc hồn trinh nữ… Ông còn thực sự là một nhà thơ chiến
sĩ, xuất hiện kịp thời, có hiệu quả nhất!
Người ta còn nhớ, Thủ tướng chính phủ "Nam Kỳ Tự Trị" Nguyễn Văn Thinh có treo giải: Ai đưa được nhà thơ Nguyễn Bính "dinh tê" theo chính phủ sẽ được thưởng 1.000 đồng Đông Dương! Nếu nhà thơ tự vào thành cũng được hưởng như thế. Và đây là câu trả lời dứt khoát:
“Mình không bỏ Sở sang Tề
Mình không là kẻ lỗi thề thì thôi”
Năm 1954,
Nguyễn Bính tập kết trở lại Miền Bắc để chấm dứt quãng thời gian Xuôi Nam. Trong
suốt 30 năm, Nguyễn Bính đã sáng tác nhiều thể loại như thơ, kịch, truyện
thơ... Ông sáng tác rất mạnh, viết rất đều và sống hết mình cho sự nghiệp thi
ca.
Nguyễn Bính mất năm 1996 tại quê hương Nam Định. Đó là vào ngày cuối cùng của năm Ất Tỵ, ngày 20/1/1966.
***
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét