Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2024

Dòng nhạc Pháp bất hủ ngày xưa

Tôi còn nhớ, ngày xưa Cà Phê Tùng ở Đà Lạt vào ngày Thứ Năm hàng tuần chơi toàn nhạc Pháp để khách có thể thưởng thức những bài hát do các ca sĩ người Pháp trình bày. Điều này chứng tỏ số người hâm mộ nhạc Pháp chiếm một thành phần đáng kể trong số người yêu thích nhạc ngoại tại Việt Nam nói chung và thành phố Đà Lạt nói riêng.

Thành phố Sương Mù có nhiều cơ sở văn hoá mang đậm sắc thái Pháp như Lycée Yersin, Petit Lycée, Adran hay Couvent des Oiseaux... nên cũng là điều dễ hiểu khi Cà Phê Tùng dành trọn một ngày cho nhạc Pháp.

 

* Video clip "Songs in French from the 60s":

https://www.youtube.com/watch?v=O1aD1pt9pUk

 

Nói đến nhạc Pháp, người ta nghĩ ngay đến Françoise Hardy (1944-2024) với bản nhạc bất hủ “Tous les Garcons et Les Filles” đã một thời làm rung động trái tim người nghe với những khắc khoải, cô đơn của tuổi đôi mươi trên đường đi tìm một người yêu trong mộng.

 

Françoise Hardy khi còn trẻ

 

Bài hát mở đầu bằng cảnh trai gái đồng trang lứa từng cặp đi bên nhau trên đường phố thật hạnh phúc. Mắt trong mắt, tay trong tay… không hề nghĩ đến ngày mai. Chỉ một mình người hát với tâm hồn nặng chĩu, cô đơn vì chẳng có người yêu:

 

“Tous les garçons et les filles de mon âge

Se promènent dans la rue deux par deux

Tous les garçons et les filles de mon âge

Savent bien ce que c'est d'être heureux.

 

“Et les yeux dans les yeux et la main dans la main

Ils s'en vont amoureux sans peur du lendemain

Oui mais moi, je vais seule par les rues, l'âme en peine

Oui mais moi, je vais seule, car personne ne m'aime…”

 

Tuy nhiên, đoạn kết của bài hát lại dẫn đến niền lạc quan trong hy vọng một ngày nào đó tâm hồn không còn nặng chĩu… đó là ngày tìm thấy người yêu:

 

“Le jour où je n'aurai plus du tout l'âme en peine

Le jour où moi aussi j'aurai quelqu'un qui m'aime.”

 

Có thể nói, Françoise Hardy là “viên ngọc quý” của nước Pháp và của cả thế giới. Bà viết bài “Tous les Garcons et Les Filles” năm 1962, khi mới vứa 19 tuổi, hoàn toàn không trải qua một trường lớp âm nhạc nào.

Với giọng ca trầm buồn, tiếng hát của Françoise Hardy đã đi sâu vào lòng những người trẻ đang bơ vơ và hoang mang trước ngưỡng cửa của tình yêu. Bản thân Hardy cũng đã phải trải qua thời niên thiếu sống thiếu bóng cha bên người mẹ đơn thân trước khi thành công trong lãnh vực âm nhạc.

Kể từ năm 1968 Françoise Hardy còn bước sang lãnh vực điện ảnh và người mẫu. Với sự hỗ trợ của người chồng đầu tiên, nhiếp ảnh gia Jean-Marie Perier, bà đã trở thành một trong những mẫu người điển hình của phong cách Pháp, một hình tượng nổi bật trong kiểu cách thời trang với mái tóc vàng quyến rũ đi kèm một khuôn mặt phảng phất một nét buồn cố hữu.

Năm 2004, Hardy phát hiện mình bị ung thư, đến năm 2016 bà đã có lúc bị hôn mê tưởng chừng như qua đời. Cuối cùng, vào ngày 11/6/2024 Françoise Hardy đã từ giã cõi đời sau một thời gian dài kiên trì chạy chữa.

Ngoài tác phẩm đầu tay “Tous les Garcons et Les Filles” Françoise Hardy còn để lại cho những người yêu nhạc những ca khúc đáng nhớ như “Comment te dire adieu”, “Le temps de l’amour”, “Message personnel”…

 

* Video clip “Tous les Garcons et Les Filles” - Françoise Hardy

https://www.youtube.com/watch?v=XPkBMqehr5k

 

Françoise Hardy lúc về già

 

Cùng sinh năm 1944 như Françoise Hardy, Sylvie Vartan (tên khai sinh là Sylvie Georges Vartanian) ra chào đời tại Iskrets, Bulgaria. Cả hai đều là ca sĩ và diễn viên nổi tiếng của Pháp nhưng mỗi người đều sở trường một dòng nhạc khác nhau.

Trong khi Françoise Hardy thiên về loại nhạc trầm buồn thì Sylvie Vartan lại theo một dòng nhạc có tiết tấu nhanh, nhí nhảnh. Nhạc của Sylvie Vartan mang âm hưởng của rock'n'roll, pop, disco, soul, jazz… nói chung là theo trào lưu của nhạc trẻ thuộc loại “yé-yé”.

Ngoài ra, Sylvie còn kết hợp với người chồng là Johnny Hallyday, một ca sĩ nhạc rock, để tạo thành một cặp diễn viên gây bão trên sân khấu mỗi khi xuất hiện.

Đối với một người mà ban đầu không muốn chọn nghề ca hát, Sylvie Vartan lại là một trong những ca sĩ Pháp có sự nghiệp bền vững khi bước vào nghề một cách bất đắc dĩ vào năm 1961.

Bố cô là tùy viên sứ quán Pháp tại Sofia, còn ông nội là giám đốc công ty điện lực quốc gia. Gia đình cô chạy trốn chế độ cộng sản sang Pháp định cư năm 1952, Sylvie lúc đó mới lên 8.

Thời còn nhỏ, cô bé chăm chỉ học giỏi, nhưng thật ra lại nuôi mộng trở thành diễn viên điện ảnh, chứ không phải là ca sĩ. Cho đến một ngày ca sĩ Frankie Jordan chuẩn bị vào phòng thu để ghi âm một bản song ca thì vào giờ chót cô ca sĩ hát chung lại không đến. Không còn ai khác để thay thế, Sylvie “bị” đẩy từ nhà đến phòng ghi âm.

Tưởng chừng hát thử cho vui, nào ngờ lại thành đĩa thật. Nhờ ca khúc này mà tên tuổi của Sylvie được lăng xê vào năm 1961. Từ năm 1963, Sylvie Vartan cùng với France Gall và Françoise Hardy trở thành những gương mặt tiêu biểu của dòng nhạc trẻ những năm 60 tại Pháp.

Sự nghịêp của cô đạt đến tột đỉnh vào những năm 68-69 và vẫn tiếp tục sáng chói qua bao thập niên nhờ biết đáp ứng nhu cầu thị hiếu của người nghe và nhất là thích nghi với các phong trào âm nhạc thời thượng từ nhạc kích động disco cho đến nhạc pop những năm 80 và 90.

 

Sylvie Vartan khi còn trẻ

 

Trong suốt sự nghiệp Sylvie Vartan đã ghi âm đến 38 tập nhạc, bán hơn 60 triệu album trên thế giới. Trong số các nhạc phẩm đó, “La Plus Belle Pour Aller Danser” được người hâm mộ Việt Nam ưa thích cho nên đã có rất nhiều ca sĩ (như Thanh Lan) trình bày tại các đại nhạc hội trên sân khấu Sài Gòn.

 

“Ce soir, je serai la plus belle pour aller danser, danser

Pour mieux évincer toutes celles que tu as aimées, aimées

Ce soir je serai la plus tendre quand tu me diras, diras

Tous les mots que je veux entendre murmurer par toi, par toi

 

“Je fonde l'espoir que la robe que j'ai voulue

Et que j'ai cousue point par point

Sera chiffonnée et les cheveux que j'ai coiffés

Décoiffés par tes mains…”

 

* Video clip “La Plus Belle Pour Aller Danser” - Sylvie Vartan

https://www.youtube.com/watch?v=r0XnzQAEOyU

 

* Video clip “Le feu” - Johnny Hallyday, Sylvie Vartan

https://www.youtube.com/watch?v=_AoqoTg-dkg

 

Sylvie Vartan lúc về già

 

Dalida (tên thật là Iolanda Cristina Gigliotti) là một ca sĩ người Pháp, sinh ra tại Ai Cập năm 1933 trong một gia đình gốc Ý, đó cũng là lý do tại sao Dalida nhận được danh hiệu Hoa hậu Ai Cập năm 1954!

Tổng cộng hơn 125 triệu đĩa hát của Dalida đã được bán ra trên toàn thế giới, trong đó “Bambino” đã trở thành “đĩa bạch kim” vào năm 1964 và “đĩa kim cương” năm 1981.

Cô được coi là một trong những nữ ca sĩ hàng đầu của Pháp với biệt tài biết nhiều thứ tiếng và thành công trong lãnh vực ca hát, kể cả điện ảnh, suốt 31 năm tại Pháp. Đó là một sự hành công tuyệt vời trên bước đường nghệ thuật… nhưng Dalida lại gặp nhiều khủng hoảng trong đời sống riêng tư, cô đã tự tử tại Paris và qua đời vào tuổi 54!.

Những người thân của Dalida lần lượt tự sát. Người tình đầu của cô, Luigi Tenco, tự tử năm 1967, khiến cô bị khủng hoảng tinh thần dẫn đến lần đầu tiên tự sát nhưng bất thành. Năm 1970, đến lượt Lucien Morisse, người chồng và người quản lý của Dalida cũng tự tìm đến cái chết. Năm 1983 Richard Chanfray, một người bạn thân khác của Dalida, cũng tự vẫn.

Sau khi có thai với một sinh viên người người Ý tại Roma, Dalida đã quyết định nạo thai nhưng cuộc phẫu thuật đã gặp trục trặc dẫn đến việc cô mất hoàn toàn khả năng làm mẹ.

Ngày 2/5/1987, Dalida đã tự tử bằng thuốc an thần và qua đời tại nhà riêng thuộc khu Montmartre, Paris, với lời trăng trối: “Tôi không thể chịu đựng cuộc sống thêm nữa, hãy tha lỗi cho tôi” (La vie m'est insupportable, pardonnez-moi).

 

Dalida, 1961

 

Ngoài bài hát bất hủ "Bambino" còn phải kể đến "Besame Mucho", "Paroles... Paroles...", "Le temps des fleurs", "Laissez-moi danser""Mourir sur scène".

Bài “Bambino” (gốc tiếng Ý là Guaglione) vốn trước đó định dành cho ngôi sao của dòng nhạc Latinh là Gloria Lasso. Dalida thu “Bambino” chỉ trong một đêm và tác phẩm thành công rực rỡ khi đĩa hát bán được nửa triệu bản, đứng trong bảng xếp hạng hơn 1 năm, trong đó có 39 tuần đứng thứ nhất. Đây cũng là “đĩa vàng” đầu tiên của Dalida.

 

“Les yeux battus

La mine triste et les joues blemes

Tu ne dors plus

Tu n'es que l'ombre de toi-meme

Seul dans la rue

Tu rodes comme une ame en peine

Et tous les soirs sous sa fenetre on peut te voir…”

 

* Theo tạp chí Kịch Ảnh (số 18, phát hành ngày 30/6/1962) Dalida đã có lần đến Việt Nam, đó là ngày 29/6/1962. Cô đến Sài Gòn trong khuôn khổ một buổi gặp mặt với tính cách “nghệ sĩ gặp nghệ sĩ”.

Ban biên tập báo Kịch ảnh với nhà báo Quốc Phong củng nhà văn Mai Thảo và đạo diễn Hoàng Anh Tuấn đã có mặt tại Khách sạn Caravelle. Nhà báo Quốc Phong đặt câu hỏi: “Dalida cho biết bí mật thành công của cô, để tôi nói lại cho các ca sĩ VN nghe”.

Dalida trả lời:

“Bí quyết gồm 2 điểm: luyện giọng và gặp dịp may. Con số đem lại may mắn cho tôi là 421… Tháng 4/1956, tôi đến hát thử cho Giám đốc Nhà hát Olympia, Bruno Coquatrix, lúc đó, Eddie Barclay (nhà sản xuất băng đĩa) đang nhậu nhẹt trong một quán cà phê gần đó.

“Bruno lôi họ đến nghe tôi hát cho vui nhưng họ không chịu. Cuối cùng, Bruno đánh cá nếu họ thua trong một ván gieo xúc xắc “kiểu 421” thì phải tới nghe; bằng không, Bruno sẽ đãi thêm một chầu rượu nữa. Rút cuộc Bruno thắng!

“Cả hai phải đến nghe, khi tôi ca bản “L’Étranger au paradis”, họ chịu liền. Thế là một “vị” chọn bài hát, còn một “vị” thâu đĩa. Nhờ những đĩa hát của Eddie Barclay mà tôi nổi tiếng”.

 

* Video clip “Bambino” – Dalida

https://www.youtube.com/watch?v=tf-cDKuGsSA

 

Dalida ngồi xe bò tại Gò Vấp, Sài Gòn

 

*** 

--> Read more..

Thứ Hai, 7 tháng 10, 2024

Dòng nhạc ngoại bất hủ của ngày xưa

Năm 1963, nhà soạn nhạc Paul Simon khi đó mới 21 tuổi đời đã trình làng một ca khúc đầu tay với một tựa đề độc đáo “The Sound of Silence”, tạm dịch là “Âm thanh của sự câm lặng”:

 

“Hello darkness, my old friend

I've come to talk with you again

Because a vision softly creeping

Left its seeds while I was sleeping

And the vision that was planted in my brain

Still remains

Within the sound of silence…”

 

Tháng 3/1964 bản nhạc được Simon và Garfunkel ghi âm tại Columbia Studios, New York City. Tuy nhiên, đĩa hát ban đầu đã không được người nghe chú ý và phải đợi đến khi các đài phát thanh tại Boston và Florida tung ra bản chỉnh sửa với các thiết bị điện tử và trống để biến bản nhạc từ thể loại dân ca sang folk-rock vào tháng 9/1965 mới trở nên nổi tiếng.

“The Sound of Silence” đã leo lên thứ bậc ngày càng cao trên danh sách của tạp chí Billboard, cạnh tranh với nhóm “The Beatles” vào năm 1966. Trong suốt 14 tuần, đĩa hát đã chiếm vị trí hàng đầu trên Billboard.

Không những thế, “The Sound of Silence” cũng đã vượt lên trong danh sách “top 10” tại các nước Úc, Áo, Đức, Nhật và Hoà Lan.

Bài hát nói về sự kiện Tổng thống Mỹ John F. Kennedy bị ám sát vào 22/11/1963, để lên án con người trở thành nô lệ của vật chất. Họ trở nên vô cảm, không biết quan tâm nhau, cảm thông lẫn nhau. Họ không dám nói tiếng nói riêng của mình mà chỉ dám sống trong câm lặng.

 

* Video clip: Simon & Garfunkel - The Sound of Silence

https://www.youtube.com/watch?v=NAEppFUWLfc

 

Simon & Garfunkel - The sound of silence

 

“The Beatles” là một ban nhạc rock người Anh được thành lập tại Liverpool vào năm 1960, bao gồm John Lennon, Paul McCartney, George Harrison và Ringo Starr.

 

* Paul McCartney giữ giọng hát chính và chơi piano, maracas, piano điện, guitar bass

* John Lennon: hát bè

* George Harrison: chơi guitar chính, hát bè

* Ringo Starr: trống

 

“Bộ tứ” được coi là ban nhạc có ảnh hưởng nhất mọi thời đại và là một phần không thể thiếu trong sự phát triển của văn hóa phản kháng của những năm 1960.

"Let It Be" là bài hát được phát hành vào ngày 6/3/1970 dưới dạng đĩa đơn và cũng là ca khúc chủ đề của album “Let It Be”. Bài hát được Paul McCartney sáng tác và trình bày cùng John Lennon. Bài hát có đoạn mở đầu mang âm hưởng tôn giáo:

 

“When I find myself in times of trouble, Mother Mary comes to me

Speaking words of wisdom, let it be

And in my hour of darkness she is standing right in front of me

Speaking words of wisdom, let it be…”

 

Vào thời điểm xuất hiện, bản nhạc có vị trí thứ 6 trên “Billboard Hot 100” và cuối cùng đạt đến vị trí cao nhất. Đây cũng là đĩa đơn cuối cùng của “The Beatles” trước khi McCartney tuyên bố rời khỏi ban nhạc!

McCartney cho biết ông nảy ra ý tưởng về "Let It Be" sau khi mơ thấy mẹ mình, Mary Patricia McCartney, qua đời vì bệnh ung thư vào năm 1956, lúc đó ông mới mười bốn tuổi.

Trong một cuộc phỏng vấn McCartney đã nói về giấc mơ mà mẹ ông đã kể với ông… "mọi chuyện sẽ ổn thôi, cứ để mọi chuyện diễn ra như vậy." Khi được hỏi liệu cụm từ "Mother Mary" trong bài hát có ám chỉ đến Đức Mẹ Đồng Trinh Mary hay không, McCartney trả lời rằng người nghe có thể hiểu bài hát theo bất kỳ cách nào họ thích!

 

* Video clip: The Beatles – Let it be:

https://www.youtube.com/watch?v=u6T5C-jzSH0

 

Ban nhạc “The Beatles”

 

Cũng xuất xứ từ Anh Quốc, ban nhạc “The Shadows” đã một thời “làm mưa làm gió” trên sân khấu ca nhạc thế giới từ thập niên 1950 với 4 thành viên chơi guitar điện Fender bao gồm nhiều thể loại nhạc pop, rock, surf rock và ballad pha chút jazz. Ban nhạc gồm:

 

* Hank B. Marvin: guitar solo

* Bruce Welch: guitar đệm

* Jet Harris: guitar bass

* Tony Meehan: chơi trống

 

“The Shadows” nổi tiếng với những tác phẩm như “Apache”, “Man of Mystery”… Bên cạnh đó còn có Cliff Richard đảm nhận việc ca hát như trong phim “The Young Ones”. Cliff Richard và nhóm “The Shadows” từng thống trị các bảng xếp hạng ca khúc ăn khách nhất nước Anh giai đoạn cuối thập kỷ 1950 và 1960.

 

* Video clip: The Shadows - Apache (1960)

https://www.youtube.com/watch?v=7TwULx_wDiI

 

* Video clip: Cliff Richard - The Young Ones

https://www.youtube.com/watch?v=BxNohANhJiA


Ban nhạc “The Shadows”


Thập niên 1960 cũng đã xuất hiện tại Việt Nam những ban nhạc trẻ chơi theo phong cách “The Shadows” với đàn Fender. Phong trào nhạc trẻ đã lan tới Đà Lạt, nơi tôi đang học những năm cuối cấp 2 tại trường Trần Hưng Đạo.

Ba người bạn chúng tôi đã thành lập một ban nhạc đàn điện, cũng có một thành viên mang kính trắng và thêm vào đó còn có ca sĩ Từ Công Phụng, một “du học sinh” từ Ninh Thuận lên.

Vốn người gốc Chàm nên Từ Công Phụng là người rất “kiệm lời” nhưng lại là một nhạc sĩ có tài. Khi lên Đà Lạt anh đã có 2 sáng tác đầu đời: “Bây giờ tháng mấy”“Mùa thu mây ngàn”.

 

Ban nhạc Trường Trần Hưng Đạo, Dalat (1965)

 

Chúng tôi đã có lần xuất hiện trên sân khấu rạp Hoà Bình trong một chương trình dành cho các ban nhạc học sinh, đồng thời cũng nhận các show diễn trong các buổi “balle de famille” của các bạn bè tại thành phố Sương Mù!

Rốt cuộc chỉ có Từ Công Phụng tiếp tục sự nghiệp văn nghệ cho đến ngày hôm nay còn 3 thành viên khác theo đuổi sự nghiệp riêng, hoàn toàn không liên quan gì đến văn nghệ.

 

Nhạc sĩ Từ Công Phụng

 

Bài viết “Dòng nhạc ngoại bất hủ của ngày xưa” tạm thời chấm dứt tại đây. Hẹn các bạn vào một dịp khác về dòng nhạc Pháp cũng đã một thời được ưa chuộng tại Việt Nam.

 

*** 

--> Read more..

Popular posts