Nói
đến thơ ngày Tết là phải nhắc đến Tú Xương [1]. Cuộc sống của Ông Tú Vị Xuyên về
vật chất rất thiếu thốn, ông luôn ở trong cảnh túng bấn, vất vả khiến cho lời
thơ của ông lúc nào cũng mang chút gì đó cay cú, phẫn nộ, buồn phiền…
Tết
đến với Trần Tế Xương vẫn đầy đủ như mọi nhà nhưng chỉ hiện hữu qua những vần
thơ trào phúng, chẳng hạn như bài Cảm Tết.
Xem ra nhà ông có đủ các thứ ăn chơi trong ba ngày Tết nhưng rốt cuộc… lại chẳng
có gì:
Anh em
đừng nghĩ Tết tôi nghèo,
Tiền của
trong kho chửa lĩnh tiêu,
Rượu
cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy,
Trà sen
mượn hỏi, giá còn kiêu.
Bánh đường
sắp gói, e nồm chảy;
Giò lụa
toan làm, sợ nắng thiu.
Thôi thế
thì thôi, đành Tết khác.
Anh em
đừng nghĩ Tết tôi nghèo.
Trần
Tế Xương đã lớn tiếng nhạo báng cả một xã hội đương thời với những lời Chúc Tết sói mòn như “sống lâu trăm tuổi”,
“giàu sang phú quý”… Nhà thơ mỉa mai gọi những người xung quanh là “nó”, một loại
từ ngữ mang đầy tính cách miệt thị. Tú Xương lại còn lớn lối xưng “ông” một
cách ngạo mạn để nói lên tâm sự ngao ngán của kẻ “bất đắc chí”:
Lẳng lặng
mà nghe nó chúc nhau:
Chúc
nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen
này ông quyết đi buôn cối
Thiên hạ
bao nhiêu đứa giã trầu.
Lẳng lặng
mà nghe nó chúc giàu:
Trăm,
nghìn, vạn mớ để vào đâu ?
Phen
này, ắt hẳn gà ăn bạc
Đồng rụng,
đồng rơi, lọ phải cầu.
Lẳng lặng
mà nghe nó chúc sang:
Đứa thì
mua tước; đứa mua quan.
Phen
này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa bán
vừa la cũng đắt hàng.
Nó lại
mừng nhau sự lắm con,
Sinh
năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường
chật hẹp người đông đúc,
Bồng bế
nhau lên nó ở non.
Đối
với Ông Tú Vị Xuyên, năm mới hay năm cũ chỉ là hình thức ước lệ, hay nói khác
đi là điều mà thiên hạ bày đặt để phô trương giàu sang phú quý, khăn áo lụa là…
thậm chí đến nỗi Sư đi có lọng che và chú Mán vắt vẻo ngồi trên xe! Thế cho nên mới
có bài thơ Năm Mới:
Khéo bảo
nhau rằng: mới với me
Bảo
nhau rằng cũ chẳng ai nghe
Khăn là
bác nọ to tày rế
Váy
lĩnh cô kia quét sạch hè.
Công đức
tu hành Sư có lọng
Xu hào
rủng rỉnh Mán ngồi xe
Phong
lưu rất mực ba ngày tết
Kiết cú
như ta cũng rượu chè.
Tem kỷ niệm Trần Tế Xương (1870-1907)
Khác
hẳn với Tú Xương với giọng điệu trào phúng chua chát, thơ Hàn Mặc Tử [2] được
Hoài Thanh mệnh danh là “...Một nguồn thơ rào rạt và lạ lùng...”
và “Vườn thơ Hàn rộng không bờ không bến
càng đi xa càng ớn lạnh...”. Trong bài Xuân
Đầu Tiên nhà thơ đưa người đọc đến một cảnh sắc xuân mới lạ với những tứ
thơ bay bổng thoát trần:
Mai
sáng mai, trời cao rộng quá
Gió
căng hơi và nhạc lên mây
Đôi
lòng cũng ấm như xuân ấm
Chỉ có
ao xuân trắng trẻo thay.
Bài
thơ Mùa Xuân Chín là cả một bức tranh
quê mộc mạc với mái tranh “lấm tấm vàng”
và trên giàn thiên lý có “bóng xuân sang”.
Hàn Mạc Tử đưa người thưởng thức thơ của ông trở về thực tế qua hai câu cuối thật
bất ngờ:
Trong
làn nắng ửng: khói mơ tan,
Đôi mái
nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt
gió trêu tà áo biếc,
Trên
giàn thiên lý bóng xuân sang.
Sóng cỏ
xanh tươi gợn tới trời.
Bao cô
thôn nữ hát trên đồi.
Ngày
mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ
theo chồng, bỏ cuộc chơi.
Hàn Mặc Tử (1912-1940)
Theo
tôi, Nguyễn Bính [3] có những bài thơ xuân, thơ Tết tuyệt vời nhất. Thơ Nguyễn
Bính đến với người đọc thật bình dị nhưng đằm thắm. Ngôn ngữ bình dân trong
thơ ông đi thẳng vào trong tim óc người đọc một cách tự nhiên, không màu mè, bí
hiểm như nhiều nhà thơ khác. Chẳng hạn như bài Xuân tha hương, ông sử dụng ngôn ngữ nói chuyện nhưng vẫn thành
thơ:
Tết này
chưa chắc em về được
Em gửi
về đây một tấm lòng
Ôi, chị
một em, em một chị
Trời
làm xa cách mấy con sông
…
Cột nhà
hàng xóm lên câu đối
Em đọc
tương tư giữa giấy hồng
Gạo nếp
nơi đây sao trắng quá
Mỗi
ngày phiên chợ lại thêm đông
Thiên hạ
đua nhau mà sắm Tết
Một
mình em vẫn cứ tay không
Vườn
nhà Tết đến hoa còn nở
Chị gửi
cho em một cánh hồng
…
Tết này
chưa chắc em về được
Em gửi
về đây một tấm lòng
Tết
này, ô thế mà vui chán
Nhưng một
mình em uống rượu nồng.
…
Chị ơi,
Tết đến em mua rượu
Em uống
cho say đến não lòng
Uống
say cười vỡ ba gian gác
Ném cái
chung tình xuống đáy sông.
Tình
chị em máu mủ ruột thịt khiến người đọc rung cảm và Xuân tha hương kết thúc bằng những lời chúc Tết mộc mạc nhưng thắm
đượm tình cảm của người em ở xa gửi hết thương yêu cho người chị ở nhà…
Tết này
chưa chắc em về được
Em gửi
về đây một tấm lòng
Cầu
mong cho chị vui như Tết
Tóc chị
bền xanh, má chị hồng
Trong
mùa nắng mới sầu không đến
Giữa hội
hoa tươi ấm lại lòng
Chắc chị
đời nào quên nhắc nhở:
- Xa
nhà, rượu uống có say không?
Nguyễn
Bính mồ côi mẹ ngay từ lúc được 3 tháng tuổi nhưng ông vẫn xây dựng một hình ảnh
người mẹ qua Tết Của Mẹ Tôi, một người
mẹ tảo tần, một đời lo cho chồng, cho con, nhất là vào những ngày Tết:
Nuôi
hai con lợn tự ngày xưa
Mẹ tôi
đã tính "Tết thì vừa"
Trữ gạo
nếp thơm, mo gói bó
Dọn
nhà, dọn cửa, rửa bàn thờ.
Nguyễn
Bính đã vẽ cảnh Tết “nhà quê” bằng những lời thơ mộc mạc nhưng chứa chan hạnh
phúc của người mẹ bên đàn con với những món quà Tết như “pháo chuột”, “tranh
gà”:
Nay là
hăm tám Tết rồi đây
(Tháng
thiếu cho nên hụt một ngày)
Sắm sửa
đồ lề về việc Tết
Mẹ tôi
đi chợ buổi hôm nay.
Không
như mọi bận người mua quà
Chỉ mua
pháo chuột và tranh gà
Cho các
em tôi đứa mỗi chiếc
Dán lên
khắp cột, đốt inh nhà.
Đến
sáng mồng một Tết các con mỗi đứa được mừng tuổi “năm xu rưỡi”. Nhưng tại sao lại
“năm xu rưỡi” mà không phải là 5 xu hay 6 xu? Ý của mẹ là “cái rưỡi” nói lên sự
thừa thãi, dồi dào sẽ đem lại may mắn cho các con. Nguyễn Bính quả thật là ý nhị:
Sáng
nay mồng một sớm tinh sương
Mẹ tôi
cấm chúng tôi ra đường
Mở hàng
mỗi đứa năm xu rưỡi
Rửa mặt
hoa mùi nước đượm hương
Về
tình yêu, những dòng lục bát của Nguyễn Bính có sức lan tỏa mãnh liệt trong
lòng người đọc qua bài Rượu xuân, vừa
vui lại vừa buồn. Thơ lục bát vốn là thế mạnh của Nguyễn Bính với lối gieo vần
chân phương, kỹ thuật láy chữ tuyệt vời nhưng vẫn không phá cách:
Cao tay
nâng chén rượu hồng,
Mừng
em, em sắp lấy chồng xuân nay.
Uống
đi! Em uống cho say!
Để
trong mơ, sống những ngày xuân qua.
Thấy
tình duyên của đôi ta,
Đến đây
là ... đến đây là ... là thôi!
Em đi dệt
mộng cùng người,
Lẻ loi
xuân một góc trời riêng anh.
Nguyễn Bính (1918-1966)
Không
như Nguyễn Bính “chân quê” từ lời đến ý, Xuân Diệu lại khác hẳn: lời thơ của
ông “màu mè” và có đôi chút “làm dáng”, ý thơ của ông cũng mang nhiều bất ngờ,
khó đoán trước. Chẳng hạn như bài Xuân
Không Mùa:
Xuân
không chỉ ở mùa xuân ba tháng;
Xuân là
khi nắng rạng đến tình cờ,
Chim
trên cành há mỏ hót ra thơ;
Xuân là
lúc gió về không định trước.
Thậm
chí xuân của ông còn hiện hữu ở cả mùa đông, mùa hè, mùa thu… Đó cũng là điều dễ
hiểu vì đối với những kẻ đang yêu, thời gian lúc nào cũng là mùa xuân dài tưởng
chừng như vô tận. Chỉ đến khi đôi lứa chia tay mới bước vào mùa đông lạnh giá.
Xuân ở
giữa mùa đông khi nắng hé;
Giữa
mùa hè khi trời biếc sau mưa;
Giữa
mùa thu khi gió sáng bay vừa
Lùa
thanh sắc ngẫu nhiên trong áo rộng.
…
Miễn trời
sáng, mà lòng ta dợn sóng,
Thế là xuân.
Hà tất đủ chim, hoa?
Kể chi
mùa, thời tiết, với niên hoa,
Tình
không tuổi, và xuân không ngày tháng
Xuân Diệu (1916 –1985)
Nói
về thơ xuân không thể nào bỏ qua bài Ông
Đồ của Nguyễn Đình Liên [5]. Bài thơ Ông
Đồ được giới phê bình văn học xem là một trong mười bài thơ tiêu biểu cho
phong trào Thơ Mới nhưng Nguyễn Đình Liên lại chưa hề xuất bản một tập thơ nào.
Đầu
năm 1941, trong một bức thư gửi Hoài Thanh khi đang viết cuốn Thi nhân Việt Nam, Vũ Đình Liên viết "Tôi bao giờ cũng có cái cảm tưởng là
không đạt được ý thơ của mình. Cũng vì không tin thơ tôi có chút giá trị gì nên
đã lâu tôi không làm thơ nữa". Hoài Thanh nhận xét Vũ Đình Liên đã hạ mình
quá đáng.
Vũ
Đình Liên là một trường hợp hiếm hoi trong làng thơ khiến nhiều người gọi ông
là “nhà thơ một bài” dù con ông còn giữ được khoảng 4.000 bài thơ ông viết. Chỉ
cần một bài Ông Đồ cũng khiến người
ta nhớ mãi:
Mỗi năm
hoa đào nở
Lại thấy
ông đồ già
Bày mực
tàu giấy đỏ
Bên phố
đông người qua.
Bao
nhiêu người thuê viết
Tấm tắc
ngợi khen tài
“Hoa
tay thảo những nét
Như phượng
múa rồng bay”.
Nhưng mỗi
năm mỗi vắng.
Người
thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ
buồn không thắm
Mực đọng
trong nghiên sầu...
Ông đồ
vẫn ngồi đấy,
Qua đường
không ai hay.
Lá vàng
rơi trên giấy:
Ngoài
trời mưa bụi bay.
Năm nay
đào lại nở,
Không
thấy ông đồ xưa.
Những
người muôn năm cũ
Hồn ở
đâu bây giờ?
Trong
dịp khai bút đầu xuân Nhâm Tuất 1982, Vũ Đình Liên có viết bài Bóng Ông Đồ, như là muốn họa lại bài thơ
cũ Ông Đồ:
Mỗi năm
hoa đào nở
Lại thấy
ông đồ già
Bút
nghiên và giấy đỏ
Ngồi
đúng chỗ ngồi xưa.
Ôi !
Cái nghiệp nghiên bút
Tô điểm
cho cuộc đời
Người
chết nghiệp không chết
Nợ tiền
kiếp luân hồi.
Trải
trăm ngàn dâu bể
Giấy mực
màu không thay
Chữ
Nhân và chữ Nghĩa
Vẫn những
nét thẳng ngay.
Ông đồ
vẫn ngồi đấy
Khăn áo
bạc màu dưa
Nhắc
cho người qua thấy
Lẽ Nhân
đạo, Thiên cơ.
Cách Mạng
là nhân nghĩa
Ông Đồ
là thi thư
Chữ
tuôn dòng Thiện Mỹ
Từ ngón
tay ông Đồ.
Bài
thơ Ông Đồ vẫn có sức lan tỏa đến tận
thời đại ngày nay. Một “thi sĩ bất đắc dĩ” nào đó cũng mượn ý của Nguyễn Đình Liên
để nói lên tính thời sự của xã hội hiện tại khi vật giá leo thang chẳng khác
nào thời “kiệm ước” trước năm 1975:
Mỗi năm
hoa đào nở
Lại thấy
ông chủ nhà
Miệng
tươi cười hớn hở
“Tăng
giá rồi đó nha!”
Vũ Đình Liên năm 66 tuổi (1979)
(ảnh baobinhdinh.com.vn)
Nói
đến ông đồ khiến tôi liên tưởng đến một phong tục đẹp trong văn hóa Việt Nam với
những câu đối Tết chẳng hạn như:
"Thịt mỡ, dưa
hành, câu đối đỏ.
Cây Nêu, tràng pháo,
bánh chưng xanh"
Một
ký giả người Pháp đã viết trên Tuần báo Đông Dương năm 1942 về truyền thống văn
hóa này: "... Những ông đồ nghèo đã
thuê mướn từ 10 ngày trước tết, một dãy vỉa hè hay mặt tiền của một căn nhà, một
góc phố - viết trên những tờ giấy màu đỏ những nét chữ vàng hay bạc... để nhận
lấy một số tiền nhỏ nhoi…
Cái tác dụng thần bí ấy
đã thúc đẩy người ta phải chi phí một số tiền để mua sắm, trang hoàng ở cửa, ở
cột, ở sàn nhà... hoặc trên tường, trên vách... những loại xuân liễn, những câu
đối. Mặc dù nền nho học đã cáo chung, nhưng những thầy đồ vẫn xuất hiện trong lớp
áo xơ bông, ngồi run lập cập trên manh chiếu để nắn nót những con chữ Nho cuối
cùng và câm lặng ấy”.
Nguyễn
Công Trứ có câu đối Tết:
"Tối ba mươi, nợ
hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa.
Sáng mồng một, rượu
say tuý luý, giơ tay bồng ông phúc vào nhà"
Trong
số hàng trăm câu đối Tết, tôi thích nhất câu này:
"Không có nhưng
giàu, giàu nghĩa, giàu tình, giàu trí tuệ
Không giàu nhưng có,
có làng, có xóm, có anh em".
Ông đồ ngồi viết câu đối Tết
Thơ
xuân ngày Tết còn nhiều, rất nhiều. Đề tài này gợi hứng cho giới làm thơ, từ
các thi sĩ thời tiền chiến như Hồ Dzếnh (Xuân
Ở Quê Em, Xuân Đôi Ta, Xuân Ý…), Huy Cận (Sang Xuân…) cho đến các nhà thơ Sài Gòn xưa như Đinh Hùng (Thanh Sắc), Nguyên Sa (Mùa Xuân Buồn Lắm Em Ơi), Kim Tuấn (Anh Cho Em Mùa Xuân), Nguyễn Tất Nhiên (Mùa Xuân Chim Núi), Bùi Chí Vinh (Bài Thơ Lì Xì)…
Sau
khi viết bài này tôi tự nhiên ngẫu hứng cũng ti toe làm thơ! Bốn câu thơ “con
cóc” dưới đây được sáng tác ngày mồng một Tết Giáp Ngọ và đã post trên Facebook
để thay lời chúc xuân đến tất cả mọi người:
Chào
năm mới, mùa xuân Giáp Ngọ
Tết của
mọi nhà, Tết của niềm vui
Trăm họ
an khang, muôn người hạnh phúc
Hưởng lộc
trời hòa khúc tân xuân.
***
Chú
thích (theo Wikipedia):
[1]
Trần Tế Xương (1870-1907) còn được gọi
là Tú Xương, tên bố mẹ đặt cho lúc đầu là Trần Duy Uyên. Ông sinh ngày 5/9/1870
tại làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định nên còn được gọi là Ông Tú Vị
Xuyên.
Tác
phẩm của Tú Xương không có di cảo, không có những công trình đáng tin cậy tập hợp
tác phẩm khi tác giả còn sống hoặc vừa nằm xuống. Sinh thời, nhà thơ sáng tác
dường như chỉ để tiêu sầu hoặc mua vui, thơ làm đọc lên cho vợ con, bạn bè
nghe, rồi tùy ý truyền khẩu.
Nói
đến tài làm thơ của Tú Xương, nhiều người đã đặc biệt chú ý đến sự kết hợp hài
hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình. Với Tú Xương, vẫn chưa
thấy chắc chắn có bài thơ chữ Hán nào, chỉ thấy thơ Nôm viết bằng các thể loại
cổ điển: thơ luật Đường: thất ngôn bát cú, tứ tuyệt; phú; văn tế; câu đối; hát
nói; lục bát. Ở thể loại nào Tú Xương cũng tỏ ra là một nghệ sĩ bậc thầy.
Tên
ông không phải là Xương theo nghĩa xương thịt nhưng người đời sau, mấy vị
chuyên làm thơ trào phúng đã cố tình đùa nghịch và "xuyên tạc", gắn
cho cái nghĩa xương thịt, để rồi tự nguyện suy tôn Tú Xương lên “bậc tổ sư”,
còn mình là môn đệ. Và như thế là lịch sử văn học Việt Nam ở thế kỷ 20 bỗng
nhiên có một "môn phái" gồm Tú Xương, rồi Tú Mỡ, Tú Sụn, Cử Nạc và
thêm "chi phái" Tú Poanh, Đồ Phồn cũng là dòng tú, cử, đồ với nhau cả.
Mộ Trần Tế Xương tại thành phố Nam Định
[2]
Hàn Mặc Tử (1912-1940) tên thật là
Nguyễn Trọng Trí, là nhà thơ khởi đầu cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam. Hàn
Mặc Tử cùng với Quách Tấn, Yến Lan, Chế Lan Viên được người đương thời ở Bình Định
gọi là Bàn thành tứ hữu, nghĩa là Bốn
người bạn ở thành Đồ Bàn.
Theo
gia đình Hàn Mặc Tử, thì vào khoảng đầu năm 1935, họ đã phát hiện những dấu hiệu
của bệnh phong trên cơ thể ông. Tuy nhiên, ông cũng không quan tâm vì cho rằng
nó là một chứng phong ngứa gì đó không đáng kể. Năm 1938-1939, Hàn Mặc Tử đau đớn
dữ dội, bên ngoài không ai nghe ông rên rỉ than khóc mà chỉ gào thét trong thơ.
Ông
bỏ tất cả quay về Quy Nhơn vào nhà thương Quy Hòa (20/9/1940) và từ trần ngày 11/11/1940
khi mới bước sang tuổi 28. Cuộc đời của ông được biết đến với nhiều mối tình, với
nhiều người phụ nữ khác nhau, đã để lại nhiều dấu ấn trong văn thơ của ông - có
những người ông đã gặp, có những người ông chỉ giao tiếp qua thư từ, và có người
ông chỉ biết tên như Hoàng Cúc, Mai Đình, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc Sương,
Thanh Huy, Mỹ Thiện.
Hàn Mặc Tử và những người tình trong thơ:
Thương Thương, Kim Cúc, Mộng Cầm, Ngọc Sương, Mai Đình
[3]
Nguyễn Bính (1918-1966) là một nhà
thơ lãng mạn được coi như là nhà thơ của làng quê Việt Nam với những bài thơ
mang sắc thái dân dã, mộc mạc. Ông ra chào đời vào đúng ngày mồng ba Tết năm Mậu
Ngọ với tên thật là Nguyễn Trọng Bính tại tỉnh Nam Định và chỉ 3 tháng sau mẹ
ông mất.
Bài
thơ đầu tiên của Nguyễn Bính được đăng báo là bài Cô hái mơ. Năm 1937 Nguyễn Bính gửi tập thơ Tâm hồn tôi tới dự thi và đã được giải khuyến khích của nhóm Tự lực
Văn đoàn. Từ năm 1940, Nguyễn Bính bắt đầu nổi tiếng với số lượng thơ khá dày,
đề tài phong phú, trong đó chủ yếu là thơ tình.
Vào
Huế, Nguyễn Bính gửi thơ ra Bắc đăng báo trong đó có Xuân tha hương và Oan nghiệt.
Sau đó Nguyễn Bính lại trở về Hà Nội, rồi lại vào Sài Gòn. Trong thời gian này Nguyễn Bính đã gặp nhà thơ Đông Hồ, Kiên
Giang. Có lúc ông cư ngụ trong nhà Kiên Giang. Đó là thời ông viết những bài Hành Phương Nam, Tặng Kiên Giang, Từ Độ Về Đây…
[4]
Xuân Diệu (1916 –1985) nổi tiếng từ
phong trào Thơ Mới với tập Thơ thơ và
Gửi hương cho gió. Những bài được yêu
thích nhất của Xuân Diệu là thơ tình làm trong khoảng 1936-1944, thể hiện một
triết lý bi quan, tuyệt vọng về tình ái nhưng lại có một mạch ngầm thúc giục,
nhiều khi hừng hực sức sống. Nhờ đó, ông được mệnh danh là "Ông Hoàng Thơ Tình". Sau 1945, thơ ông chủ yếu ca ngợi Đảng
Lao động Việt Nam và thơ tình của ông không còn được biết đến nhiều như trước.
Ông
tên thật là Ngô Xuân Diệu, quê quán làng Trảo Nha, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh
nhưng sinh tại Gò Bồi, thôn Tùng Giản, xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình
Định. Xuân Diệu lớn lên ở Quy Nhơn, sau khi tốt nghiệp tú tài, ông đi dạy học
tư và làm viên chức ở Mỹ Tho (nay là Tiền Giang), sau đó ra Hà Nội sống bằng
nghề viết văn, là thành viên của Tự Lực
Văn Đoàn (1938–1940).
Xuân
Diệu tốt nghiệp cử nhân Luật năm 1943, bên cạnh sáng tác thơ, ông còn tham gia
viết báo cho các tờ Ngày Nay và Tiên Phong. Trong sự nghiệp sáng tác thơ
văn của mình, Xuân Diệu được biết đến như là một nhà thơ lãng mạn trữ tình, là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”
(Hoài Thanh).
[5]
Vũ Đình Liên (1913-1996) sinh tại Hà
Nội, nhưng quê gốc ở thôn Châu Khê, xã Thúc Kháng, huyện Bình Giang, tỉnh Hải
Dương. Ông đỗ tú tài năm 1932, từng dạy học ở các trường: Trường tư thục Thăng
Long, Trường Gia Long, Trường nữ sinh Hoài Đức để kiếm sống. Ông học thêm trường
Luật đỗ bằng cử nhân, về sau vào làm công chức ở Nha Thương chính (còn gọi là Sở
Đoan) Hà Nội.
Năm
1936, ông được biết đến với bài thơ Ông Đồ
đăng trên báo Tinh Hoa. Những bài thơ hiếm hoi được biết đến của ông đều mang nặng
nỗi niềm hoài cổ, về lũy tre xưa, về thành quách cũ và "những người muôn năm cũ". Ngoài bài thơ Ông Đồ, ít ai biết Vũ Đình Liên còn có
chùm thơ về người đàn bà điên gồm Người
đàn bà điên ga Lưu Xá, Gặp lại người
đàn bà điên và Người điên – Nàng điên…
Chủ
đề về những con người nghèo khổ, tàn tạ, thuộc về một thời đã qua là lựa chọn
chủ động của Vũ Đình Liên khi sáng tác, dù thơ ông được xếp vào phong trào Thơ
Mới – nổi tiếng với những vần thơ ca ngợi tình yêu, tuổi trẻ.
***
(Trích
Hồi Ức Một Đời Người, Chương 10: Thời
xuống lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
Chương
1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương
2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương
3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương
4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương
5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương
6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương
7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
Chương
8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương
9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác
giả đang viết tiếp Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho
đến ngày xuống lỗ)!
Trả lờiXóaĐầu Xuân, được đọc một bài viết với nhiều tư liệu thật hay và thú vị!
Cám ơn bác chủ nhà.
Tuy nhiên, trong bài viết, có chỗ này Bảo Vân hơi hơi...lấn cấn, bác chủ nhà xem lại sao?
Đó là:
- Nguyễn Công Trứ có câu đối Tết:
"TỐI ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa.
Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông phúc vào nhà"
- TỐI hay CHIỀU ?
Vì lẽ:
1/ "CHIỀU ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.
Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà."
(Nguyễn Công Trứ, câu đối làm vào dịp tết lúc còn hàn vi.)
http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A2u_%C4%91%E1%BB%91i
2/ CHIỀU ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa.
Sáng mồng một, rượu say tuý luý, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
(Nguyễn Công Trứ - VĂN HỌC VIỆT NAM -1968 - DƯƠNG QUẢNG HÀM - trang 52 phần Câu Đối)
P/s:
Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương đầy hóm hỉnh khi viết câu đối:
- "TỐI ba mươi, khép cánh càn khôn, ních chặt kẻo Ma Vương đưa quỷ tới.
Sáng mồng một, lỏng then tạo hóa, mở toang cho thiếu nữ rước xuân vào."
quá tuyệt
XóaXin phép anh Chính cho tôi đăng lại bài này ở: https://nuocnha.blogspot.com
Trả lờiXóa