(Tiếp theo)
Australia còn được
gọi là ‘Down Under’, tạm dịch là ‘Miệt Dưới’, vì nằm ở phía Nam Bán Cầu. Du ký
dưới đây được viết thành nhiều kỳ để ghi lại 45 ngày sống ở phía Nam trái đất.
Ngày 14/4/2013: Thăm
chùa Quảng Đức
Tôi là người tin vào Đạo Phật nhưng lại không phải là một
Phật tử theo đúng nghĩa. Tôi không hiểu rõ lắm về các nghi thức ở chùa, khi vào
chùa cũng chẳng biết phải làm thế nào cho phải cách. Tôi cũng chẳng khi nào đi
nghe thuyết pháp nhưng có đọc một số sách viết về Đạo Phật.
Đối với tôi, ảnh hưởng lớn nhất của giáo lý Phật Giáo lại
thông qua bố tôi, một người cũng rất ít đi chùa nhưng trong nhà có treo rải rác
những tấm bìa ghi lời Phật dậy được viết bằng mực bút nguyên tử xanh-đỏ, có cả
gạch dưới ở những câu quan trọng. Bố tôi cũng chẳng bao giờ học kinh kệ nhưng
ông đọc sách viết về Phật giáo và rút ra từ đó những điều ông muốn khuyên nhủ
các con.
Gọi một người như bố tôi là cư sĩ cũng không đúng, ông chỉ
tìm hiểu về Phật Giáo qua những triết lý nằm trong sách chứ không phải trong
kinh. Khi bố tôi mất, tôi thừa hưởng những kiến thức về Phật Giáo một cách sơ
sài nhưng cũng biết phân biệt thế nào là đại thừa - tiểu thừa, hiểu thế nào là “tham,
sân, si”, vòng luân hồi, luật nhân quả, nghiệp chướng …
Phải nói dài dòng như vậy vì bài viết này nói về một ngôi
chùa của người Việt tại Melbourne mang tên Quảng Đức mà vợ chồng Đạt & Hoa
có nhã ý đưa chúng tôi đến thăm ngày hôm nay. Bài viết này được trình bày qua
cái nhìn của một du khách chứ không phải một Phật Tử nên có thể không có tính
cách “bênh vực” hay “nhạo báng” đạo Phật.
Tam quan Tu viện Quảng Đức
Trong hình trên,
cổng tam có tên đề Tu viện Quảng Đức (Quang Duc Monastery) chứ không phải là
chùa Quảng Đức như người ta quen gọi. Hiểu theo nghĩa thông thường, tu viện là
công trình xây dựng dành cho các nhà tu hành như tu sĩ, ẩn sĩ, nữ tu... nghỉ
ngơi, sinh hoạt, hành lễ và tu đạo. Danh từ “tu viện” được dùng chung cho Phật
giáo, Công giáo và cả Hồi giáo. Ngược lại, chùa được dùng riêng cho Phật giáo
nhưng tôi vẫn chưa hiểu hết giữa Tu viện và Chùa trong trường cụ thể như Tu viện
Quảng Đức hay Chùa Quảng Đức.
Mặt
sau tam quan
Trên thực tế, có
rất nhiều ngôi chùa mang tên Hòa thượng Thích Quảng Đức (1879-1963), người đã tẩm
xăng tự thiêu tại ngã tư Phan Đình Phùng – Lê Văn Duyệt (nay là Nguyễn Đình Chiểu
– Cách mạng tháng 8) ngày 11/6/1963 để phản đối sự đàn áp Phật giáo của chính phủ
Ngô Đình Diệm.
Việc tự thiêu của
Hòa thượng Thích Quảng Đức được coi như một bước ngoặt trong lịch sử chính trị miền
Nam khi nền Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Diệm bị lật đổ qua một cuộc đảo
chính quân sự ngày 1/11/1963. Tấm ảnh chụp hòa thượng tự thiêu đã được truyền
đi khắp thế giới và gây nên sự quan tâm đặc biệt tới chính sách của chính phủ thời
đó.
Phóng viên David
Halberstam được trao giải Pulitzer nhờ một bài báo tường thuật sự kiện này và phóng viên ảnh Malcolm Browne đã giành Giải
thưởng Ảnh Báo chí Thế giới năm 1963 nhờ bức hình dưới đây:
Bức
ảnh của phóng viên David Halberstam
Hòa thượng Thích
Quảng Đức xuất hiện trong số 350 nhà sư và ni cô dẫn đầu bởi một chiếc xe hiệu Austin
Westminster. Hòa thượng từ trong xe bước ra với hai nhà sư khác, một người đặt
tấm nệm xuống đường còn người kia mở cabin xe và lấy ra một bình xăng.
Hai nhà sư sau
đó tưới xăng lên người Hòa thượng Thích Quảng Đức trong khi đồng đạo châm lửa từ
xa. Lửa nhanh chóng thiêu rụi áo cà sa và da thịt của vị hòa thượng, khói đen bốc
lên từ cơ thể đang cháy. Chiếc xe Austin hiện còn được lưu giữ tại chùa Thiên Mụ
ở Huế.
Ngoài con số gần
15.000 ngôi chùa rải rác khắp lãnh thổ Việt Nam còn có những ngôi chùa được xây
dựng tại nước ngoài để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của người Việt tại hải ngoại.
Riêng đối với các ngôi chùa mang tên Quảng Đức, ở Việt Nam cũng như hải ngoại
có rất nhiều, trong đó có Tu viện Quảng Đức, khu Fawkner, thành phố Melbourne,
thuộc Giáo hội Việt Nam Thống nhất Hải ngoại tại Úc Đại Lợi & Tân Tây Lan.
Tu viện Quảng Đức
do Thượng tọa Thích Tâm Phương thành lập từ năm 1990 trên nền trước đây là ngôi
trường tiểu học với diện tích rộng 8000 mét vuông. Tăng ni, Phật tử tại địa
phương đã tổ chức quyên góp và mua lại khu đất với giá $350.000.
Điều lý thú Thượng
tọa Tâm Phương gốc người thành phố Nha Trang, tỵ nạn tại Úc năm 1986, lại có
hai người em ruột cũng xuất gia, Thượng tọa Thích Nguyên Tạng, hiện là phó trụ
trì, và sư cô Thích nữ Tâm Vân hiện trụ trì chùa Thiên Long, quận Phú Nhuận,
Sài Gòn.
Kiến trúc chính
của chùa gồm tường rào dài 90m, cổng tam quan, chánh điện, tượng đài Quan Âm lộ
thiên, vườn Lâm Tỳ Ni, vườn Lộc Uyển Hàng… với tổng chi phí lên đến 2 triệu Úc
kim. Có 25 bậc thang dẫn lên Chánh điện với 8 bức phù điêu đắp nổi, mô tả các
giai đoạn về cuộc đời Đức Phật.
Chánh
điện
Tầng lầu có sân
thượng rộng khoảng 10m và hành lang chạy dọc theo 2 bên hông Chánh Điện; bên
trong, Chánh điện thờ Phật là một tòa phạm vũ nguy nga, bề rộng 15m, dài 35m, với
sức chứa 300 người. Bàn thờ Phật được thiết trí rất trang nghiêm, chính giữa thờ
tượng đồng Đức Phật Thích Ca thiền định trên tòa sen cao 2,50m, nặng khoảng 1,5
tấn, bên dưới là pho tượng Phật Ngọc cao 5 tấc; hai bên là hai tôn tượng Hộ
Pháp Già Lam được mạ vàng.
Bên
trong Chánh điện
Tọa lạc trên một
khu đất trước đây là trường học nên Tu viện Quảng Đức phải nằm giữa một khu vực
dân cư. Dĩ nhiên, đây không phải là lợi thế của một công trình tôn giáo vốn cần
một bầu không khí trang nghiêm, tĩnh mịch. Con đường trước mặt tu viện chỉ có 2
làn xe nên rất dễ bị tắc nghẽn khi xe vào hay ra khỏi chùa. Bãi đậu xe trong
sân lại quá nhỏ khiến các ngày lễ lớn tập trung đông người trở thành một vấn đề
nan giải đối với các Phật tử cũng như gây phiền phức cho cư dân địa phương.
Không thể không
ghi nhận một nỗ lực rất lớn về tinh thần và vật chất của Phật tử người Việt tại
vùng Fawkner trong việc tạo dựng một ngôi chùa trên nước Úc. Tuy nhiên, ngoài
những yếu tố khách quan như đã nói ở trên còn có những vấn đề thuộc về chủ quan
như việc thiết kế và trang trí.
Tu viện Quảng Đức
giờ đã quá chật hẹp so với lần tôi đến thăm vào năm 2007. Đó là hậu quả của việc
xây dựng thêm một công trình nằm phía bên phải Chánh điện vào năm 2012. Tòa nhà
này đề tên “Truyền Đăng Tục Diện – Phương
Trượng”, một loạt những từ ngữ Hán Việt mà một người bình thường như tôi cảm
thấy khó hiểu.
Truyền
Đăng Tục Diện – Phương Trượng
Trước đó, từ năm
2008 chùa cũng đã xây thêm Tăng xá Quảng Đức và Bảo tháp Tứ Ân. Bảo Tháp Tứ Ân
gồm 4 tầng, cao 14m và rộng 5m, trên nóc Bảo Tháp có một pho tượng cao 1m20; tầng
cao nhất của Bảo Tháp thờ Xá Lợi Phật và 3 pho tượng Tam Thánh Tây Phương bằng
đồng. Tầng 2 và 3 thờ Bồ tát Ðịa Tạng và tro cốt của những Phật tử gửi tại
chùa. Từ năm 2008, tu viện đã thiết kế màn hình vi tính để trên 1000 chân dung
người quá cố được hiển thị suốt ngày đêm.
Hình thức xây
tháp được thực hiện tại hầu hết các ngôi chùa Á châu chứ không riêng gì Việt
Nam. Tôi đã có dịp chiêm ngưỡng quần thể kiến trúc chùa Nam Thiên của Đài Loan ở
Wollongong, nơi đây cũng có một ngọn tháp cao 8 tầng nhưng ở quy mô lớn hơn
(*).
Bảo
Tháp Tứ Ân
Tăng Xá có chiều
dài 20m, rộng 11m, gồm 2 tầng có 12 phòng ngủ, một phòng khách và một gác lửng
8x16m dùng làm Thiền đường và phòng hội họp. Kinh phí xây dựng công trình này theo
chiết tính của kiến trúc sư Nguyễn Kiển Thành và các kỹ sư xây dựng đã lên đến
$900,000 Úc kim. Sau một năm xây dựng, Tăng Xá đã hoàn tất và được cắt băng
khành thành nhân dịp lễ khai mạc chiêm bái Phật Ngọc vào ngày 5/12/2009.
Tu Viện Quảng Đức
do kiến trúc sư Nguyễn Kiển Thành thiết kế, kiến trúc tổng quát của Tu Viện được
kiến lập theo kiểu chữ "Công" (工),
mang dáng dấp kiến trúc cổ kính Á Đông. Nhìn từ bên ngoài, các kiến trúc đều có
mái giả ngói, giữa nóc có bánh xe pháp luân và các góc chạm hình đầu rồng và
phượng.
Cầu
thang lên Chánh điện được trang trí đầu rồng
Tuy nhiên, mái của
các tòa nhà mang nhiều đường thẳng theo kỷ hà học hơn là những đường cong thường
thấy ở các chùa Việt Nam. Tôi nghĩ, mái chùa càng cong càng có nét Đông Phương nềm
mại hơn là những đường thẳng của Phương Tây. Nhưng quan trọng hơn cả là cách phối
trí màu sắc của quần thể kiến trúc.
Ngay từ cổng tam
quan người ta đã thấy sự pha trộn của quá nhiều mầu sơn rất chỏi nhau: cổng màu
xanh, tường màu nâu, bảng trên cổng có chữ màu vàng, mái ngói màu lam… Theo
tôi, đó là sự lạm dụng màu sắc đối với khung cảnh trang nghiêm của một ngôi
chùa.
Ngoài vườn chùa
có các tượng như Phật Thích Ca Thuyết pháp, Phật Thích Ca Thiền định, Phật
Thích Ca Nhập Niết bàn, Phật A Di Đà phóng quang, tượng Phật Di Lặc, Bồ Tát
Quan Âm, 18 pho tượng A La Hán, đặc biệt có Phật tích Vườn Lộc Uyển với Đức Phật
lăn chuyển bánh xe Chánh pháp.
Chúng tôi cũng dự
một bữa cơm chay gây quỹ nhà chùa vì hôm đó là ngày Chủ Nhật với giá vé $20. Bữa
“ngọ trai” được tổ chức theo dạng buffet và được mở đầu với đôi lời của thượng
tọa trụ trì Thích Tâm Phương. Thượng tọa trước khi vào đề nhắc nhở Phật tử nên
học theo “văn minh của người Úc” giữ yên lặng khi có người phát biểu. Và để tạo
sự chú ý, Thượng tọa yêu cầu mọi người đứng dậy trước khi nói đến Bồ tát Thích
Quảng Đức tự thiêu tại Sài Gòn năm 1963.
Thượng
tọa trụ trì Thích Tâm Phương
Bữa ăn trưa diễn
ra với chương trình ca nhạc gồm các bản nhạc Đạo & Đời do những ca sĩ “cây
nhà lá vườn” trình diễn giúp vui. Tôi thấy có cả những người mang đồ ăn về nhà
theo kiểu “take away” nên trên bàn buffet dù đã được các tình nguyện viên liên
tục phục vụ nhưng chẳng mấy chốc đã cạn. Người ta cho rằng đồ ăn chay ở chùa
cũng là lộc của Phật nên mang về chăng?
Bàn
tiệc buffet chay
Chúng tôi ra về,
kết thúc hơn nửa ngày tại một trong những ngôi chùa của người Việt tại
Melbourne với những điều mắt thấy tai nghe.
***
(*) Xem bài Du ký xứ… Miệt Dưới (6): Nan Tien Temple
http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/03/du-ky-xu-miet-duoi-6iep.html
(Còn tiếp)
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 10: Thời xuống lỗ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (Những chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh
thổ)
Theo anh mô tả thì đây là ngôi chùa mới đúng, vì chùa là nơi dành cho Tăng hoặc Ni sinh hoạt, tu hành và hoành dương đạo Phật, Phật tử sẽ thường xuyên đến viếng chùa, nghe quí Thầy thuyết giảng và tu học Phật pháp.
Trả lờiXóaCó lẽ M nhìn quen cảnh kiến trúc các ngôi chùa cổ ở VN, hoặc kiến trúc của các ngôi chùa của Đài loan hay chùa của người Hoa ở VN, cho nên nhìn ngôi chùa này lại chẳng thấy giống một trong hai ngôi chùa trên, mà có những nét như ngôi nhà thiết kế theo kiểu chùa.
Ngoài sân thì bài trí quá nhiều Tượng Phật, mỗi tượng một màu sắc, màu sắc trong chánh điện cũng thế, nhìn chung thiếu sự hài hòa về mỹ thuật và tôn giáo. Nhìn chung thiếu hương vị của một ngôi chùa tĩnh tịch thiêng liêng.
M cũng vừa đưa một số hình ảnh mới của ngôi chùa "cổ" ở trên núi Chấu Thới, mời anh quá bộ qua xem nhé.