Cuộc
chiến tranh tại Việt Nam ngoài những tổn thất nặng nề về sinh mạng cho cả 3 phe
- Miền Bắc, Miền Nam và Hoa Kỳ - cũng là một cuộc chiến tốn nhiều giấy mực nhất
với một lực lượng phóng viên chiến trường hùng hậu từ khắp nơi trên thế giới đổ
về để theo dõi và đưa tin đến hàng triệu độc giả đọc báo hoặc xem truyền hình.
Tại
Sài Gòn thời chiến, ngoài những phóng viên được các hãng thông tấn và các tờ
báo nổi tiếng tại Mỹ gửi đến còn có sự xuất hiện của các phóng viên từ Pháp, Đức,
Anh, Canada, Ý, Hà Lan, Tây Ban Nha, Argentina, Brazil và Nhật Bản. Họ là những
phóng viên thuộc “quốc-tịch-thứ-ba”, một cụm từ ám chỉ các nhà báo không phải
là người Việt hoặc người Mỹ.
Huy hiệu phóng viên chiến trường
Trong
cái thế giới báo chí quốc tế phức tạp đó cũng có 3 hướng đưa tin chính: (1) ủng
hộ cuộc chiến hay còn gọi là “diều hâu”; (2) phản chiến hay “bồ câu” và (3) trung
lập.
Điển
hình cho trường phái “bồ câu” là phóng viên dày dạn kinh nghiệm Homer Bigart
[1] của tờ New York Times. Bigart đã
đoạt giải thưởng Pulitzer về báo chí trong thời chiến tranh Triều Tiên trước
khi sang nhận nhiệm sở tại Sài Gòn.
Ông
đến Việt Nam năm 1962 và chỉ ở đây đúng 6 tháng trước khi bị Tổng thống Ngô
Đình Diệm trục xuất vì lý do đã “phê phán chính sách gia đình trị” của Tổng thống
Diệm, cố vấn Ngô Đình Nhu và vợ là Trần Lệ Xuân. Đó cũng là thời kỳ Đệ nhất Cộng
hòa bị giới truyền thông quốc tế cáo buộc là đã đàn áp Phật giáo.
Một
năm sau khi Bigart bị trục xuất khỏi Việt Nam, Tổng thống Diệm cùng bào đệ bị
ám sát và nền Đệ nhất Cộng hòa cũng cáo chung. Bigart viết trong hồi ký sau khi
nhận thức rằng cuộc chiến tranh Việt Nam là một sai lầm của nước Mỹ: “Tôi nghĩ rằng chúng ta đã quá khờ khạo gửi
quân sang đấy sau khi đã trải qua kinh nghiệm tại Triều Tiên…”
Homer Bigart (1962)
Ngoài
số ít phóng viên lớn tuổi như Homer Bigart, lực lượng phóng viên nước ngoài tại
Việt Nam thời chiến tranh đa số hãy còn trẻ, tuối đời chỉ độ 27 hay 28. Thế
nhưng trong số họ đã dành được nhiều Giải thưởng Pulitzer về báo chí với Horst
Faas (2 lần đoạt giải), Malcolm Browne, Peter Arnett, Neil Sheehan và David Halberstam.
Theo
David Halberstam [2], người thay thế Homer Bigard khi ông này bị trục xuất khỏi
Việt Nam, những phóng viên trẻ khi đến chiến trường Việt Nam luôn mang trong
tim một tinh thần yêu nước (Mỹ) cộng thêm lòng yêu nghề (báo). Tuy nhiên, sự thật
phũ phàng của chiến tranh lại phơi bầy những mâu thuẫn và xung đột khi họ tiếp
xúc với thực tế.
Thái
độ của đa số các phóng viên khiến giới chức quân sự, cả Việt lẫn Mỹ, có cảm
giác như những người trẻ này đều có khuynh hướng “bồ câu”, hay nói một cách
khác, họ “phản chiến”. Thậm chí một quan chức Mỹ còn nói thẳng thừng: “Mấy gã nhà báo chỉ mong cho Mỹ cũng như Miền
Nam thua trận”.
Sự
hy sinh của các phóng viên trên chiến trường là một thực tế không thể phủ nhận.
Họ thường trực tiếp dấn thân vào lửa đạn để gửi về Mỹ những bài báo nóng hổi và
sống động vì họ không tin vào các buổi
thuyết trình của giới chức quân sự tại hậu phương.
Mà
súng đạn vô tình đâu có phân biệt người cầm súng hay cầm bút, súng đạn cũng chẳng
phân biệt giới tính nên cũng đã có nữ phóng viên chiến trường bỏ mình tại Việt
Nam.
Một
trong những nguyên tắc của nghề báo là không thể nào ngồi viết chuyện chiến trường
trên bàn giấy tựa như người viết tiểu thuyết. Thế cho nên, đã là phóng viên chiến
trường thì phải chấp nhận “sinh nghề tử nghiệp”.
Từ trái sang phải: David Halberstam (New York Times),
Malcolm Browne (Associated Press) và Neil Sheehan (UPI)
Có
một nghịch lý trong cuộc chiến vừa qua: phóng viên chiến trường đôi khi lại trở
thành “kẻ thù” của quân đội, dù cùng chung tổ quốc. David Halberstam kể lại:
“Vào mùa thu năm 1963
có một trận đánh lớn tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long nhưng cánh phóng viên không
được tháp tùng. Tôi và Neil Sheehan điện thoại cho Tướng Paul Harkins, Chỉ huy
trưởng Lực lượng Quân đội Mỹ tại Việt Nam, rồi lại liên lạc với Đại sứ Henry
Cabot Lodge để tìm cách tiếp cận chiến trường.
Ngay hôm đó có buổi
báo cáo tình hình chiến sự tại Tổng hành dinh MACV [Military Assistance
Command, Vietnam] nhưng người thuyết trình không phải là sĩ quan cấp tá như thường
lệ mà là ông tướng hai sao Dick Stillwell. Tướng Stillwell tuyên bố: “Trước khi
vào buổi thuyết trình tôi có vài lời với một số phóng viên trẻ đã quấy rầy tướng
Harkins và Đại sứ Lodge. Các bạn trẻ không nên lặp lại điều đó nữa, ông Đại sứ
và tướng Harkins là những người bận rộn, họ không rảnh để tiếp chuyện các bạn.
Các bạn cứ tiếp nhận thông tin mà chúng tôi cung cấp…”
Tim tôi đập thình thịch
khi đứng lên nói: “Xin lỗi Ngài, chúng tôi không phải là lính của Ngài. Chúng
tôi là những phóng viên do New York Times, United Press, Associated Press và
Time phái đến đây. Ngày hôm nay có một số phi công và xạ thủ trực thăng ra trận,
tính mạng của họ và hằng triệu đô la phương tiện chiến tranh được đem ra thử
thách. Người dân Mỹ có quyền được biết đến trận chiến này. Nếu Ngài thấy chúng
tôi xông xáo quá mức xin cứ viết thư báo cho tòa soạn của chúng tôi và chắc chắn
họ sẽ có người thay thế…”
Đại sứ Henry Cabot Lodge và phu nhân tại Sài Gòn (1963)
Một
trong những phóng viên có thời gian gắn bó với cuộc chiến tranh Việt Nam lâu nhất,
phục vụ cho nhiều tờ báo và hãng thông tấn nhất là Malcolm Browne. Bộ ảnh Hòa
thượng Thích Quảng Đức tự thiêu tại ngã tư Lê Văn Duyệt-Phan Đình Phùng [3] đã
mang lại cho Browne giải thưởng Pulitzer cao quý của ngành báo chí Hoa Kỳ năm
1963.
Bài
báo cuối cùng của Browne về chiến tranh Việt Nam mang tựa đề “Đằm thắm, Thù hận và Đau buồn đánh dấu những
ngày cuối cùng của Sài Gòn” (Tenderness, Hatred and Grief Mark Saigon's
Last Days) được đăng tải trên tờ New York
Times ngày 6/5/1975, đúng một tuần sau khi Sài Gòn thất thủ. Bài báo được
viết trên tàu di tản USS Mobile thuộc Đệ thất Hạm đội ngày 3/5/1975 với những lời
mở đầu như sau:
“Tựa như một cuộc hôn
nhân đổ vỡ, mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đã chấm dứt trong thù hận và nghi ngờ
giữa những kỷ niệm vẫn còn phảng phất đâu đây sự đằm thắm và cảm thông từ cả
hai phía”
Dưới
mắt Browne, ngày cuối cùng của Sài Gòn diễn ra một cách “cay đắng” đối với những
người Mỹ còn sót lại như ông giữa một thành phố “hỗn mang”, “hấp hối”… Tác giả
đã dùng chữ “big nose” để ám chỉ những người nước ngoài theo cách gọi “mũi lõ,
tóc quăn” của người Việt…
“Big
nose” là những người Mỹ đang làm việc tại Sài Gòn dưới màu áo dân sự vì trước
đó quân đội Mỹ đã rút khỏi Việt Nam sau hiệp định Paris năm 1973. Nhưng “mũi
lõ” cũng có thể là những phóng viên người nước ngoài không đến từ nước Mỹ, họ vẫn
còn ở lại Sài Gòn để chứng kiến những giờ phút cuối cùng của cuộc chiến để gửi
bài vở và hình ảnh về tòa soạn tại châu Âu, châu Mỹ và cả châu Á như Nhật Bản.
Dưới mắt người Việt Nam, tất cả họ đều là người Mỹ dù thực tế họ không mang quốc
tịch Mỹ.
Hoa Kỳ rút quân theo Hiệp định Paris 1973
Browne viết: “Trong tâm khảm của hàng triệu người Việt và số ít người Mỹ có liên
quan sẽ vẫn còn đó sự đau buồn pha lẫn mặc cảm đã phản bội hoặc bị phản bội…
Nhiều tổ chức, công ty và cơ quan dân sự Mỹ đã đóng cửa và ra đi mà không ngó
ngàng đến thân phận những nhân viên người Việt.
Nhà sản xuất phi cơ
Northrop tuyên bố sẽ giúp nhân viên Việt Nam ra đi nhưng lại không áp dụng
chính sách này với gia đình của họ nên cuối cùng nhân viên vẫn ở lại. Nhiều chi
nhánh ngân hàng Mỹ đóng cửa, chuyển hết hồ sơ và đưa nhân viên về Mỹ để lại
hàng ngàn người Việt gửi tiền không được thanh toán. Nhiều cơ quan Mỹ di tản những
nhân viên người Việt được chọn lựa theo cách làm của “thế giới ngầm”
(underground world) trước khi cuộc di tản chính thức được công bố…
Ngay người Mỹ, trong
số đó có các phóng viên, cũng gặp trở ngại trong việc xin di tản cho người Việt
đi cùng khiến một số người phải vất vả làm đơn, phải nộp hôn thú, thậm chí phải
hối lộ… Chỗ trên máy bay di tản chỉ có hạn nên người Mỹ trở thành kẻ nói dối
trước con mắt những người Việt phải ở lại…”
Bài
viết của Browne có đoạn kết như sau:
“Vài phút trước khi
nhóm người Mỹ cuối cùng lên xe buýt vào Tân Sơn Nhất để di tản có một người bạn
Việt Nam đến chia tay. Người Mỹ nước mắt rưng rưng và người bạn Việt Nam an ủi:
“Sau khi rời khỏi nơi
đây có thể bạn sẽ nghe tin về những chết chóc xảy đến cho những người ở lại như
tôi. Nhưng bạn sẽ không sống suốt quãng đời còn lại trong sự mặc cảm vì đã phản
bội. Đó chỉ là một phần trong “định mệnh đen tối” (black fate) của Việt nam mà
trong đó bạn có liên quan. Định mệnh thì lúc nào cũng không thể thay đổi được!”.
Malcolm Browne và bức ảnh Hòa thượng Thích Quảng Đức tự
thiêu
Theo
tôi, một trong những bài viết về những ngày cuối cùng của Sài Gòn đầy đủ nhất và
nhiều chi tiết thú vị nhất là của John Pilger [4]. Không giống như các phóng
viên Mỹ, Pilger là người Úc thuộc nhóm phóng viên “quốc-tịch-thứ-ba” tham
gia cuộc chiến Việt Nam đến ngày cuối
cùng và viết bài cho báo Anh. Pilger đã hai lần đạt được danh hiệu “Phóng viên của năm” (Journalist of the
Year), giải thưởng hằng năm cao quý nhất của báo chí Anh.
John Pilger, phóng viên người Anh, gốc Úc
Với
tựa đề “The Fall of Saigon 1975: An
Eyewitness Report”, Pilger đã đưa người đọc trở về với những ngày định mệnh
vào cuối tháng 4/75, khởi đầu là việc một khu vực dân cư tại trung tâm Sài Gòn
bị tấn công bằng đạn rocket, thiêu hủy 150 căn nhà, 14 người chết và trên 40
người bị thương:
“Quả rocket phá hủy một
khu vực gần 500 mét vuông khu dân cư chen chúc những căn nhà bằng gỗ tại Chợ Lớn
và tạo nên một đám cháy thiêu rụi nhà cửa thành bình địa. Người dân đứng đó gần
như bất động trước những tấm tôn cong queo còn sót lại… Vụ pháo kích đêm qua là
tin sốt dẻo sau hơn 10 năm Sài Gòn không là mục tiêu tấn công, nhưng hôm nay
không còn là tin nóng chỉ vài phóng viên có mặt…”
Sài Gòn bị pháo kích
Pilger
viết: “Sài Gòn đang sụp đổ trước mắt, một
Sài Gòn được người Mỹ hậu thuẫn, một thành phố được coi là “thủ đô tiêu dùng”
nhưng chẳng hề sản xuất một mặt hàng nào ngoài chiến tranh. Trong hàng ngũ của
quân đội lớn thứ tư thế giới vào thời điểm đó, binh lính đang đào ngũ với tốc độ
cả nghìn người trong một ngày…”
Hai
máy bay C-130 Hercules từ căn cứ không quân Clark tại Phi Luật Tân đang bay
phía trên sân bay Tân Sơn Nhất để chuẩn bị đón người di tản nhưng cuối cùng lại
nhân lệnh không được hạ cánh vì tin tình báo cho biết có sự hiện diện của 2
trung đội địch.
Tướng
Homar Smith báo cáo: “Có khoảng 3.000 thường
dân rất lo lắng đang tập trung tại phi trường Tân Sơn Nhất. Tình hình có vẻ như
đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát…”. Như vậy là kế hoạch di tản bằng máy bay đã
bị phá sản. Chỉ còn lại phương án dùng trực thăng.
Thủy quân lục chiến Mỹ bảo vệ Văn phòng Tùy viên Quốc
phòng (DAO) trong khu vực Tân Sơn Nhất
Pilger
tả lại quang cảnh đường phố Sài Gòn: “Lệnh
giới nghiêm 24/24 giờ được áp dụng, nhưng vẫn có người trên đường phố trong đó
có cả lính của Sư đoàn 18 thuộc vùng 4 chiến thuật. Tôi nghĩ họ nổi giận khi thấy
người Mỹ sắp ra đi. Họ xuất hiện ở trung tâm thành phố để nhìn những người nước
ngoài, hoặc đe doạ hoặc bắn chỉ thiên để giải toả nỗi tức giận.
Công trường Lam Sơn [gần khách sạn
Caravelle] trống trải, chỉ có vài người
lính đi lại với vẻ chán chường. Một người trong số này đi nhanh về hướng đại lộ
Tự Do, thét vào mặt tôi. Hình như anh ta say. Anh ta lấy súng lục, ngắm bắn, chọn
mục tiêu và bóp cò. Viên đạn sượt qua đầu trong khi tôi chạy…”
Những
người nước ngoài, kể cả những người thuộc “quốc-tịch-thứ-ba” đã được Tòa Đại Sứ
Mỹ phát hành một cuốn sách nhỏ mang tên SAFE, viết tắt từ cụm từ "Standard Instruction and Advice to
Civilians in an Emergency”, tạm dịch là “Tiêu chuẩn Chỉ dẫn và Lời khuyên
cho thường dân trong trường hợp khẩn cấp".
Pilger
bổ xung nhiều chi tiết hơn về SAFE: “Cuốn
sách nhỏ có in bản đồ Sài Gòn và ghi rõ “những khu vực tập trung để trực thăng
có thể đón”. Còn có một trang đính kèm với nhắc nhở: “Chú ý đến mật hiệu di tản
và không tiết lộ cho những người khác”. Khi có lệnh di tản, mật hiệu sẽ được
truyền trên Đài phát thanh của Quân đội Hoa Kỳ. Nguyên văn như sau: NHIỆT ĐỘ TẠI
SÀI GÒN LÀ 112 ĐỘ VÀ ĐANG TĂNG. TIẾP SAU ĐÂY LÀ GIAI ĐIỆU BÀI HÁT "I'M
DREAMING OF A WHITE CHRISTMAS".
Như
đã nói ở phần trên, những phóng viên thuộc “quốc-tịch-thứ-ba” có người không bết
hoặc chưa hề nghe bài hát nổi tiếng của Mỹ từ thập niên 1940, “I’m dreaming of a white Christmas” do
Bing Crosby trình bày. Họ cuống quýt nhờ các đồng nghiệp người Mỹ hát thử để nhận
diện bài hát khi được phát trên đài Quân đội Mỹ! (xem video clip về bài hát này
trên YouTube tại: https://www.youtube.com/watch?v=BOrwX11CbsY)
Thế
nhưng Pilger cho biết, anh hoàn toàn không nghe thấy bản tin thời tiết Sài Gòn
và cũng chẳng được thưởng thức giọng hát trầm ấm của Bing Crosby rên rỉ về việc
mơ thấy một Giáng sinh trắng trên radio như đã thông báo.
Trước Tòa Đại Sứ Mỹ (Ảnh chụp ngày 22/4/1975)
Tình
hình ngày càng rối ren, bất ổn… người Việt tìm đường rời khỏi đất nước khiến Đại
sứ Mỹ Graham Martin phải xuất hiện trên truyền hình với lời cam kết long trọng:
“Nước Mỹ sẽ không rút khỏi Việt Nam”.
Ông tuyên bố:
"Tôi, Đại sứ Mỹ,
sẽ không chạy trốn lúc nửa đêm. Bất kỳ ai cũng có thể tới nhà tôi và chứng kiến
tôi chưa sắp xếp hành lý" (I, the American Ambassador, am not going to
run away in the middle of the night. Any of you can come to my home and see for
yourselves that I have not packed my bags).
Pilger
viết về ông Martin: “Đại sứ Mỹ là một người
kiên quyết và nóng nảy. Ông ta không khoẻ lắm, má hóp và nước da sạm vì bị viêm
phổi từ nhiều tháng nay; bài phát biểu đôi khi thều thào do ảnh hưởng của những
viên thuốc mà nhà ngoại giao phải điều trị. Ông hút thuốc lá liên tục và những
cuộc nói chuyện với ông thường bị gián đoạn bởi những tràng ho dài”.
Theo
Pilger, Đại sứ Martin vẫn khẳng định với Washington rằng Việt Nam có thể tồn tại
với "vành đai thép" (iron ring) bao quanh Sài Gòn và những máy bay
B-52 lúc nào cũng sẵn sàng yểm trợ. Tuy nhiên, trong thâm tâm ông Đại sứ luôn
giữ trong lòng một vết thương khó phai khi mất đi người con trai tại vùng đất
này 9 năm về trước.
Sau
cuộc họp giữa Martin và các quan chức vào lúc 6 giờ sáng ngày 29/4/1975 có nhiều
ý kiến bất đồng. Tất cả mọi người, trừ ông Đại sứ, đều có ý kiến phải tiến hành
kế hoạch di tản ngay lập tức. Martin lại không đồng ý, ông tuyên bố sẽ không “chạy
trốn” và thậm chí sẽ tự lái xe tới sân bay Tân Sơn Nhất để đánh giá tình hình.
Ông
Martin có lý do để lạc quan: Ngoại trưởng Henry Kissinger cho biết Đại sứ Nga tại
Washington, Anatoly Dobrynin, hứa sẽ chuyển thông điệp muốn đàm phán của VNCH tới
Hà Nội.
Trong
khuôn viên Sứ quán Mỹ có một cây me già trồng từ thời Pháp. Đại sứ Martin thường
nói với những người thân cận rằng ông coi cây me này là hình ảnh biểu tượng của
nước Mỹ tại Việt Nam. Một khi cây me đổ, uy tín và danh dự của Hoa Kỳ cũng đổ
theo (!). Nhưng sau khi cuộc họp kết thúc, phụ trách CIA tại Nam Việt Nam, Tom
Polgar, ra lệnh chặt cây me mà không xin phép ông Martin để chuẩn bị cho kế hoạch
di tản.
Ngoài
bãi đáp trên sân thượng của tòa đại sứ dành cho loại trực thăng nhỏ Huey, khoảng
không đủ rộng để các loại trực thăng Chinook và Jolly Green Giant lên xuống là
khu vực bể bơi. Chỉ nơi đây mới có thể thực hiện kế hoạch di tản theo “Option
Four” (Phương án 4: di tản bằng trực thăng). Để chuẩn bị cho phương án này, cây
me già sẽ bị đốn.
Hồ bơi trong khuôn viên Tòa Đại Sứ có cả vũ khí cá nhân của
người chờ di tản
10g43:
Lệnh tiến hành “Option Four” được đưa ra. Tuy nhiên, Đại sứ Martin vẫn tin rằng
“còn thời gian” để đàm phán để có một “giải pháp danh dự”. Một đám đông chen lấn
ở trước cửa sứ quán Mỹ, có người còn cố trèo tường để vào bên trong. Một số người
có mặt ở đây chỉ vì tò mò; một số khác vừa ôm chặt cánh cổng sắt vừa nài nỉ thủy
quân lục chiến Mỹ. Họ đưa ra giấy tờ hoặc thư từ giới thiệu của các quan chức Mỹ.
Đám đông trèo tường để vào Tòa Đại Sứ Mỹ
Pilger
thêm chi tiết: “Một ông già có lá thư của
một Trung uý người Mỹ. Trước đây ông đã làm tại một quán bar tại câu lạc bộ sĩ
quan không quân tại Pleiku với nhiệm vụ rửa bát. Lá thư đề ngày 5/6/1967 ghi:
"Ông Nhạ, người mang bức thư này, đã trung thành phục vụ sự nghiệp tự do của
Việt Nam Cộng hoà".
…
Tục ngữ Việt Nam có
câu "Cháy nhà ra mặt chuột". Ông Phan Quang Đán, cựu Phó thủ tướng
kiêm Bộ trưởng đặc trách An sinh Xã hội và Tái định cư Người tị nạn, đi cùng vợ
vào sứ quán. Cùng với họ là những người thân, số lượng tương đương một trung đội.
Trong số những người
sắp di tản còn có các thanh niên ở độ tuổi quân dịch nhưng gia đình họ khá giả
nên hối lộ những khoản tiền lớn để chỉ có tên trong danh sách của một đơn vị
nào đó, nhưng chưa bao giờ ra chiến trường. Họ có cuộc sống phong lưu ở Sài
Gòn, uống cà phê, cưỡi Honda… trong khi con trai nhà nghèo phải tham gia quân đội
bỏ mạng ở Quảng Trị, An Lộc...
Tướng
Đặng Văn Quang, một trong những cánh tay đắc lực của Tổng thống Thiệu, cũng có
mặt trong khuôn viên sứ quán với 3 chiếc vali Samsonite để chờ trực thăng rời
khỏi Việt Nam. Pilger mô tả “Tướng Béo” là một trong những vị tướng giàu nhất
vì tham nhũng và buôn lậu. Sau này, cuộc đời lưu vong của Tướng Quang cũng gặp
nhiều trắc trở, ông định cư tại Mỹ rồi lại sống tại Canada và cuối cùng qua đời
tại Hoa Kỳ năm 2011.
Tâm
trạng những người Mỹ trong sứ quán, theo lời kể của Pilger, lại vui như trong
ngày hội. Họ ngồi trên bãi cỏ quanh bể bơi với rượu champagne đặt trong các
bình đá được lấy từ sứ quán.
Pilger
có dịp nói chuyện với Warren Parker trên sân Tòa Đại Sứ, ông là Lãnh sự Mỹ tại
Mỹ Tho. Parker nói với giọng tiểu bang Georgia: “Nếu có khoảnh khắc của sự thật thì với tôi đó là hôm nay. Những năm
qua tôi ở đây, làm việc cho nước tôi và đất nước này. Và hôm nay tất cả những
gì tôi thấy là chúng ta đã chia rẽ người tốt khỏi người xấu... và chúng ta chỉ
thu về toàn người xấu".
Thủy quân Lục chiến trên tàu Hancock thuộc Đệ thất Hạm đội
chờ lịnh để bay đến Sài Gòn bảo vệ cuộc di tản
3g15
chiều 29/4/1975: Chiếc Cadillac chở Đại sứ Martin không thể rời cổng phụ sứ
quán. Chiếc xe dừng lại và ông tuyên bố: “Một
lần nữa, tôi sẽ đi bộ về nhà của mình, tôi sẽ đi bộ một cách thoải mái trong
thành phố này. Tôi sẽ rời Việt Nam khi Tổng thống bảo tôi phải làm như vậy”.
Graham
Martin vượt qua đám đông và đi bộ một đoạn ngắn về tư dinh. Một tiếng rưỡi sau,
ông trở lại sứ quán với chú chó xù Nitnoy và một người đàn ông Việt Nam giúp việc.
Pilger kể tiếp những diễn biến trong Tòa Đại Sứ:
“Khi chiếc trực thăng
Chinook đầu tiên hạ cánh, cánh quạt va phải một ngọn cây và tiếng các cành cây
rơi xuống tựa như một cuộc chạm súng… Sức gió của cánh quạt cũng khiến một số
giấy tờ và tiền đô la bay tứ tung…”
Rất
nhiều tài liệu mật của sứ quán đã được tiêu huỷ cộng với rất nhiều tiền, những
tờ tiền giấy 10, 50 và 100 đô la, cũng cùng chung số phận. Pilger tiết lộ: “Một quan chức trong sứ quán cho biết hơn 5
triệu đô la đã bị đốt, tất cả các két sắt trong sứ quán đều trống rỗng nhưng vẫn
được khóa cẩn thận… “để đánh lừa ‘kẻ xấu’ khi chúng tôi ra đi”.
Nguyên
văn của câu cuối: “so as to fool the gooks
when we've gone”, chữ “gooks” là tiếng lóng của người Mỹ dùng để miệt thị người
châu Á nên chúng tôi tạm dịch là “kẻ xấu”. Thủy quân lục chiến phục vụ tại Phi Luật Tân hồi
đầu thế kỷ 20 đã sử dụng từ này để chỉ người Philippines. Thuật ngữ này tiếp tục
được sử dụng bởi lính Mỹ tại Việt Nam khi có ý xúc phạm đến người bản xứ.
Trực thăng Jolly Green Giant bốc người di tản từ khuôn
viên Tòa Đại Sứ
Trực
thăng Chinook, có hình dáng như một quả chuối, bình thường có thể chở 50 người
nhưng hôm nay tải trọng lên đến 70 người di tản nhưng các phi công đã điều khiển
một cách an toàn ra Đệ thất Hạm đội đang chờ ngoài Biển Đông.
Trực thăng Chinook trên Đệ thất Hạm đội
2g30
sáng 30/4/1975: Kissinger gọi điện cho Martin và yêu cầu ông kết thúc kế hoạch
di tản lúc 3g45 sáng. Nửa tiếng sau, Martin xuất hiện cùng một cặp da, một túi
xách các tài liệu và lá cờ Sao & Sọc của Hoa Kỳ. Ông im lặng đi lên tầng 6,
nơi một chiếc trực thăng đang đợi.
Liên
lạc giữa sứ quán và trực thăng di tản ghi lại: “Lady Ace 09 đang ở trên không cùng Code Two”: “Lady Ace 09” là ám
số của chiếc trực thăng chở Đại sứ Graham Martin, còn ông mang bí danh “Code
Two”. Đó cũng lời xác nhận bán chính thức về việc Hoa Kỳ rút khỏi Việt
Nam.
Những
người lính Thủy quân Lục chiến cuối cùng rút lên sân thượng, họ bắn lựu đang
cay xuống cầu thang trong tâm trạng hoang mang của những người lính Mỹ cuối cùng
rời khỏi Việt Nam…
Ngày
2/5/1975 vị Đại sứ Hoa Kỳ 61 tuổi với vẻ mệt mỏi đã tuyên bố ngắn gọn với các
phóng viên có mặt trên Đệ thất Hạm đội: “Với
tư cách một quốc gia, nếu chúng ta đã làm những gì mà tôi nghĩ là chúng ta đã
nói thì chúng ta nên làm – nếu chúng ta giữ những cam kết đó thì chúng ta đã
không phải di tản”.
Đại sứ Graham Martin gặp các phóng viên có mặt trên Đệ thất
Hạm đội ngày 2/5/1975
Theo
những tài liệu còn lưu giữ tại Trung tâm Văn khố Việt Nam thuộc Texas Tech
University, cuộc di tản được tiến hành tại hai địa điểm chính: Văn phòng Tùy
viên Quân sự Mỹ (DAO) tại phi trường Tân Sơn Nhất và trên khuôn viên Tòa Đại Sứ
Mỹ.
Tại
DAO, cuộc di tản kéo dài từ 4g30 chiều đến 8g tối ngày 29/5/1975. Tại Tòa Đại Sứ
Mỹ, kế hoạch ban đầu là chỉ di tản những nhân viên trực thuộc nhưng số người Việt
kéo đến đây lên tới khoảng 2.000 người trong khi số chuyến bay đến từ Đệ thất Hạm
đội chỉ có hạn. Cuộc di tản để lại hơn 400 người Việt tại Tòa Đại sứ. Chuyến
bay cuối cùng rời khỏi Sài Gòn vào lúc 7g53 sáng 30/4/1975 để bốc toán Thủy
quân Lục chiến bảo vệ sứ quán.
Tổng
kết có hơn 130.000 người di tản khỏi Sài Gòn và riêng trong ngày cuối cùng có
662 chuyến bay đưa người di tản ra Hạm đội 7 neo đậu ngoài Biển Đông, cách Sài
Gòn 60 dặm.
Kế
hoạch di tản của Hoa Kỳ bị thiệt hại 3 chiếc trực thăng và 2 nhân viên phi
hành. Một kết quả đáng tự hào của lực lượng phụ trách di tản nhưng cũng là một
đoạn kết buồn cho cuộc hôn nhân Việt – Mỹ như Malcolm Browne đã từng ví von!
***
Chú
thích:
[1]
Homer William Bigart (1907–1991) là phóng viên của New York Herald Tribune từ năm 1929 đến năm 1955 và sau đó chuyển
sang tờ New York Times cho đến khi về
hưu vào năm 1972. Ông được coi là “phóng viên của mọi phóng viên” và là một tấm
gương sáng cho các phóng viên thế hệ kế tiếp.
[2]
David Halberstam (1934–2007) là một nhà báo và là tác giả nổi tiếng về đề tài
Chiến tranh Việt Nam, ông còn viết về chính trị, lịch sử, kinh doanh, truyền
thông, văn hóa Mỹ, và sau cùng là thể thao.
Ông
tốt nghiệp chuyên ngành báo chí tại trường Đại học Harvard năm 1955. Từ đó, ông
theo đuổi nghề báo và viết sách cho đến khi ông mất năm 2007 do tai nạn giao
thông.
[3]
Về Malcolm Browne, xem thêm bài viết “Malcolm
Browne & bộ ảnh Hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu” tại http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/11/malcolm-browne-bo-anh-hoa-thuong-thich.html
[4]
John Richard Pilger sinh năm 1939 tại Úc và sinh sống tại Luân Đôn từ năm 1962,
ông cộng tác với tờ Daily Mirror và tạp
chí New Statesman. Ngoài công việc của
một phóng viên chiến trường, Pilger và còn là người làm hơn 50 phim thời sự nổi
tiếng với khuynh hướng chống lại chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và Anh quốc.
Ông cũng là người phản đối chính sách của chính phủ Úc đối với thổ dân tại đây.
Ngoài những phim về Việt Nam, ông còn thực hiện những bộ phim thời dự về
Cambodia, Đông Timor.
***
(Trích Hồi
Ức Một Đời Người, Chương 4 – Thời quân ngũ)
Hồi
Ức Một Đời Người gồm
9 Chương:
1.
Chương
1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
2.
Chương
2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
3.
Chương
3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
4.
Chương
4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân
đội)
5.
Chương
5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
6.
Chương
6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
7.
Chương
7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
8.
Chương
8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
9.
Chương
9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và
lãnh thổ)
Tác
giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống
lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét