Đã từ lâu, người ta ca tụng Hồ Xuân Hương là “Bà Chúa Thơ
Nôm”. Nôm là biến âm của chữ Nam,
ám chỉ nước Việt, người Việt. Gọi là chữ Nôm để
phân biệt với chữ Hán hay còn gọi là chữ Nho. Tóm lại, Hán hay Nho là chữ của
người Tàu, Nôm là chữ của người Việt (1).
Chữ Nôm được khảm xà cừ trang trí trên ống điếu
Sau
khi chữ quốc ngữ được phổ biến vào đầu thế kỷ 20, chữ Nôm dần dần mai một với
chính sách không khuyến khích dùng chữ Nôm của người Pháp. Người ta thường nói “Nôm na là cha mách qué” với hàm ý coi
khinh chữ Nôm nhưng kho tàng văn chương Việt Nam đã có nhiều tác phẩm giá trị
viết bằng chữ Nôm.
Có
thể kể đến truyện Trinh Thử của Hồ Huyền Qui, truyện Trê Cóc và Lục Súc Tranh
Công, không biết tác giả là ai. Sau đó là các tác phẩm Nhị Độ Mai, Bần Nữ Thán,
Quan Âm Thị Kính… Văn thơ Nôm có những áng văn thơ nổi tiếng như Hoa Tiên Truyện,
Bích Câu Kỳ Ngộ, Cung Oán Ngâm Khúc, Chinh Phụ Ngâm và đặc biệt là Truyện Thúy
Kiều.
Truyện Kiều bản Chiêm Vân Thị
dưới tựa đề “Thúy Kiều Truyện Tường Chú”
Hồ
Xuân Hương là một trường hợp làm thơ bằng chữ Nôm hiếm có trong lịch sử văn
chương Việt Nam. Thơ Hồ Xuân Hương ngày nay được nhiều người tìm đọc và thưởng
thức vì trộn lẫn “ý tục” được diễn tả dưới dạng “chữ thanh” rất ý nhị pha lẫn
cách dùng chữ theo kiểu… “tả chân mà lại không phải là tả chân”.
Sau
này, những ý thơ gợi hình của nữ sĩ Hồ Xuân Hương còn được khắc họa sinh động
qua nét bút phóng khoáng của cố danh họa thời cận đại, Bùi Xuân Phái (2), khiến
người xem tranh phải… đỏ mặt. Bộ tranh vẽ theo thơ của Hồ Xuân Hương được cố
danh họa thực hiện từ năm 1982 đến 1986. Bộ tranh này hiện do người con trai của
ông là họa sĩ Bùi Thanh Phương lưu giữ.
Phố cổ và tranh khỏa thân trong tranh Bùi Xuân Phái
Hơn
thế nữa, thơ Hồ Xuân Hương đã được phổ biến trên văn đàn thế giới. Trong cuộc
viếng thăm Việt Nam năm 2000, Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton nhắc đến Hồ Xuân
Hương nhân sự kiện cuốn sách Spring
Essence: The Poetry of Ho Xuan Huong do nhà thơ Hoa Kỳ John Balaban (3) biên
soạn và dịch sang tiếng Anh.
Sách
do Copper Canyon Press xuất bản vào tháng 10/2000 tại Hoa Kỳ và Spring Essence được dịch từ tên của “Bà
Chúa Thơ Nôm” Xuân Hương. Tác phẩm này được in bằng 3 thứ tiếng: Tiếng Anh, Tiếng
Việt và cả chữ Nôm.
“Spring Essence: The Poetry of Ho Xuan Huong”
Theo
tôi, có 3 lý do chính khiến trường hợp của Hồ Xuân Hương trở thành đặc thù và
bí ẩn để được các nhà phê bình văn học gán cho danh hiệu “Bà Chúa Thơ Nôm”. Thứ
nhất, bà là một trong những trường hợp hiếm hoi của người phụ nữ làm thơ, mà lại
là thứ thơ châm biếm thiên về khuynh hướng tính dục, vừa thanh lại vừa tục. Thứ
nhì, tung tích của Hồ Xuân Hương, cho đến nay, vẫn còn bao trùm nhiều bí ẩn. Thứ
ba, nhiều học giả cho rằng những bài thơ được coi là của Hồ Xuân Hương có thể
do nhiều người sáng tác trong thời kỳ Nho học không cho phép người làm thơ đưa
ra những tư tưởng phóng khoáng, cách tân.
Giai-nhân Dị-mặc – Sự-tích và thơ-từ Xuân Hương
(Imprimerie Tonkinoise, Hanoi)
Trước
tiên, hãy đọc lại những vần thơ thuộc loại “tự sự” như quả mít với những ngôn từ
rất bình dị nhưng không hiểu sao người đọc cứ bị ám ảnh bởi bộ phận kín của phụ
nữ. Động tác “đóng cọc” lên trái mít cho mau chín vẫn được dân gian thực hiện một
cách bình thường nhưng nhà thơ lại khiến người đọc phải… nghĩ bậy!
Thân em như quả mít trên cây
Da nó xù xì, múi nó dầy
Quân tử có thương thì đóng cọc
Xin đừng mân mó, nhựa ra tay
(Quả Mít)
John
Balaban đã chuyển ngữ sang tiếng Anh bằng 4 câu khá mạnh bạo nhưng tôi vẫn e rằng
người nước ngoài không thể hiểu hết nghĩa của thói quen “đóng cọc” lên trái mít
cho chảy nhựa, mau chín để ăn được. Cụm từ “pierce me with your stick” không diễn
tả hết nghĩa bóng và nghĩa đen của việc… “đóng cọc”:
My body
is like the jackfruit on the branch:
My skin
coarse, my meat thick
Kind
sir, if you love me, pierce me with your stick
Caress
me and sap will slicken your hands
(Jack Fruit)
Và
họa sĩ Bùi Xuân Phái đã “hình tượng hóa” bài thơ qua bức tranh mô tả một thiếu
nữ ôm quả mít trước cái nhìn thèm thuồng của gã đàn ông râu quặp đứng bên cạnh.
Cảnh trai gái ôm nhau phía sau có tác dụng như một gợi ý chuyện trăng hoa trong
tư tưởng của người đàn ông.
Bài thơ “Quả mít” được họa sĩ Bùi Xuân Phái thể hiện trên
tranh
Để
mô tả công việc bình thường của người phụ nữ ngày xưa bên khung cửi với “con
cò”, “con suốt”… Hồ Xuân Hương đã khéo léo dẫn người đọc đến chuyện phòng the
nam nữ vốn được coi là “vùng cấm” trong thơ văn thời Nho học:
Thắp ngọn đèn lên thấy trắng phau,
Con cò mấp máy suốt đêm thâu.
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc,
Một suốt đâm ngang thích thích mau.
Rộng, hẹp, nhỏ, to, vừa vặn cả.
Ngắn, dài, khuôn khổ cũng như nhau.
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ,
Chờ đến ba thu mới dãi mầu.
(Dệt vải)
Và
đây là bài thơ Dệt vải được Balaban đặt
tựa đề là Weaving at Night. Việc đặt
tựa đề khi dịch không quan trọng bằng việc diễn tả hết ý của nguyên tác:
Lampwick
turned up, the room glows white.
The
loom moves easily all night long
As feet
work and push below.
Nimbly
the shuttle flies in and out.
Wide or
narrow, big or small, sliding in snug.
Long or
short, it glides smoothly.
Girls
who do it right, let it soak
Then
wait a while for the blush to show
(Weaving at Night)
Họa
sĩ Bùi Xuân Phái phác họa chuyện dệt vải của nữ sĩ Hồ Xuân Hương qua hình ảnh một
thiếu nữ ngồi gục đầu với mái tóc dài xỏa xuống quá lưng. Chỉ bằng những nét
đơn sơ ông đã vẽ nên một thân hình phải nói là tuyệt mỹ. Nói theo ngôn ngữ ngày
nay là “cả 3 vòng” đều đạt tiêu chuẩn của một người phụ nữ đẹp mà không cần biết
mặt mũi ra sao:
Cảm tác của họa sĩ Bùi Xuân Phái từ bài “Dệt vải”
Có
người cho rằng thơ Hồ Xuân Hương mang đậm sắc thái của người bị ám ảnh quá nhiều
về tình dục. Điều này cũng đúng qua bài Đánh Đu với câu kết lấp lửng “Cột nhổ
đi rồi, lỗ bỏ không”. Tuy nhiên, nếu nhìn tổng thể, bài thơ là cả một bức tranh
sống động với những từ láy được gieo vần một cách tài tình như “khéo khéo trồng”,
“khom khom cật”, “ngửa ngửa lòng”…
Tám cột
khen ai khéo khéo trồng,
Người
thì lên đánh, kẻ ngồi trông.
Trai đu
gối hạc khom khom cật,
Gái uốn
lưng ong ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh
quần hồng bay phất phới.
Hai
hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi
xuân ai biết xuân chăng tá!
Cột nhổ
đi rồi, lõ bỏ không.
(Đánh
Đu)
Balaban
cũng chơi chữ khá nhuần nhuyễn khi dịch “Trai
đu gối hạc khom khom cật / Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng” thành “A boy pumps, then arcs his back / The shapely
girl shoves up her hips”:
Praise whoever raised these poles
for some to swing while others watch
A boy pumps, then arcs his back.
The shapely girl shoves up her hips.
Four pink trousers flapping hard,
Two pairs of legs stretched side by side.
Spring games. Who hasn’t known them?
Swinging posts removed, the holes lie empty
(Swinging)
Họa sĩ Bùi Xuân Phái có lẽ tâm đắc nhất với
câu kết nên ông chỉ vẽ một chàng thanh niên vác trên vai một cây tre với câu “Cọc
nhổ đi rồi, lỗ bỏ không”. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ phía bên trái bức tranh, sau
lưng anh ta có vẽ một cái lỗ tròn tròn, cỏ mọc um tùn. Điều ý nhị của bức tranh
là đây:
"Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không"
(Còn
tiếp)
***
Chú
thích:
(1)
Nhiều học giả cho rằng cách cấu tạo chữ Nôm có thể đã
manh nha từ những năm đầu khi người Trung Hoa chinh phục đất Giao Chỉ thuộc Miền
Bắc Việt Nam ngày nay. Khi đó, họ đặt nền đô hộ trên các bộ lạc người Việt từ
những năm đầu Công nguyên.
Phạm Huy Hổ trong Việt
Nam ta biết chữ Hán từ đời nào? cho rằng chữ Nôm có từ thời Hùng Vương. Văn
Đa cư sĩ Nguyễn Văn San lại cho rằng chữ Nôm có từ thời Sĩ Nhiếp, cuối đời Đông Hán,
vào thế kỷ thứ 2. Nguyễn Văn Tố dựa vào hai chữ "Bố Cái" trong danh xưng Bố Cái Đại Vương do người Việt suy tôn Phùng Hưng mà cho rằng chữ Nôm có từ thời Phùng Hưng thế kỷ thứ
8. Ý kiến khác lại dựa vào chữ “Cồ” trong quốc hiệu Đại Cồ Việt để
cho rằng chữ Nôm có từ thời Đinh Tiên Hoàng.
Trong một số nghiên cứu vào thập niên 1990, các học giả căn cứ vào đặc điểm cấu trúc của chữ Nôm, dựa vào cứ liệu
ngữ âm lịch sử tiếng Hán và tiếng Việt, so sánh đối chiếu hệ thống âm tiếng Hán
và tiếng Hán Việt đã đi tới kết luận rằng âm Hán Việt, tức là cách phát âm
của người Việt đọc chữ Hán, bắt nguồn từ thời nhà Đường - nhà Tống vào
thế kỷ thứ 8 hoặc 9.
Về văn bản thì khi tìm chứng tích trước thời nhà Lý, văn
tịch hoàn toàn không lưu lại dấu vết chữ Nôm nào cả. Sang thời Lý mới có một số
chữ Nôm như trong bài bi ký ở chùa xã Hương Nộn, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ (tạc năm 1173, niên hiệu Chính Long Bảo Ứng thứ
11) hay bia chùa Tháp Miếu, huyện Yên Lãng (nay thuộc Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc) tạc năm 1210 triều vua Lý Cao Tông.
Từ
thế kỷ 10 cho đến thế kỷ 20, phần lớn các tài liệu văn học, triết học, sử học,
luật pháp, y khoa, tôn giáo và hành chánh được viết bằng chữ Nôm. Dưới triều đại
nhà Tây Sơn, toàn bộ các văn kiện hành chánh được viết bằng chữ Nôm trong suốt 24
năm, từ 1788 đến 1802. Nói cách khác, chữ Nôm là công cụ duy nhất hoàn toàn Việt
Nam ghi lại lịch sử văn hoá của dân tộc trong khoảng 10 thế kỷ.
Theo
học giả Nguyễn Hữu Vinh, “Chữ Nôm là một
sáng tạo rất có ý nghĩa của tổ tiên cha ông ta. Sự xuất hiện của chữ Nôm là một
sự kiện lớn đánh dấu sự tiến triển của nền văn hóa dân tộc trong gần 2000 năm
qua. Sự hình thành của chữ Nôm có thể do sự bức bách cần thiết trong việc giáo
hóa dân chúng ở vào thời đại xa xưa… Càng về sau, mỗi lần đất nước bị kẻ thù
phương Bắc xâm lược thì trong những thời kỳ đó, chữ Nôm lại đóng vai trò tích cực
hơn trong việc chống trả ngoại xâm và xây dựng đất nước.”
(2)
Bùi Xuân Phái (1920 - 1988) là một danh họa của Việt Nam ngang tầm thế giới, đặc
biệt nổi tiếng với các tác phẩm vẽ về Phố cổ Hà Nội (Phố Phái). Quê ông ở làng
Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Đông.
Ông
tốt nghiệp khoa Hội họa trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khóa 1941–1946. Năm
1952 về Hà nội và sống tại nhà số 87 Phố Thuốc Bắc cho đến khi mất. Năm
1956-1957 giảng dạy tại Trường Mỹ thuật Hà Nội. Tham gia phong trào Nhân văn
Giai phẩm, phải đi học tập lao động trong một xưởng mộc tại Nam Định.
Bùi
Xuân Phái là một trong những họa sĩ thuộc thế hệ cuối cùng của sinh viên trường
Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, cùng thời với các danh họa Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư
Nghiêm, Dương Bích Liên - những tên tuổi ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của mỹ
thuật Việt Nam hiện đại. Ông chuyên về chất liệu sơn dầu, đam mê mảng đề tài phố
cổ Hà Nội. Ngay từ lúc sinh thời, sáng tạo của ông đã được quần chúng mến mộ gọi
dòng tranh này là Phố Phái.
Ngoài
phố cổ, ông còn vẽ các mảng đề tài khác, như: chèo, chân dung, nông thôn, khỏa
thân, tĩnh vật... rất thành công. Ông vẽ trên vải, giấy, bảng gỗ, thậm chí cả
trên giấy báo khi không có đủ nguyên liệu. Ông dùng nhiều phương tiện hội họa
khác nhau như sơn dầu, màu nước, phấn màu, chì than, bút chì... Các tác phẩm của
ông biểu hiện sâu xa linh hồn người Việt, tính cách nhân bản và lòng yêu chuộng
tự do, óc hài hước, đậm nét bi ai và khốn khổ. Ông đã góp phần rất lớn vào lĩnh
vực minh họa báo chí và trình bày bìa sách, được trao tặng giải thưởng quốc tế
(Leipzig) về trình bày cuốn sách “Hề chèo” (1982).
Do
tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, từ năm 1957 trở đi, hoạt động của ông dần
bị hạn chế. Để kiếm sống, ông phải vẽ tranh minh họa và tranh vui cho các báo,
lấy bút hiệu là: PiHa, ViVu, Ly. Mãi đến năm 1984 ông mới có được cuộc triển
lãm cá nhân (đầu tiên và cũng là duy nhất), nhận được sự đánh giá cao từ phía
công chúng, đồng nghiệp. Với 24 bức tranh được khách hàng đặt mua ngay trong
ngày khai mạc, có thể coi đây là triển lãm thành công nhất so với trước đó tại
Việt Nam.
Bùi Xuân Phái
(3)
John Balaban là giáo sư văn chương tại Đại học North Carolina, ông cũng là người
nước ngoài đầu tiên dịch ca dao Việt Nam sang tiếng Anh, tiếp đó là tập thơ Hồ
Xuân Hương và truyện Kiều. John Balaban còn thành lập Hội Bảo tồn Di sản Chữ
Nôm tại Hoa Kỳ và một dự án số hóa Hán Nôm đầu tiên ở Việt Nam.
Hồ
Xuân Hương và Kiều, hai người phụ nữ Việt giúp Balaban hiểu được phần nào thân
phận của phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến trước kia. Ông cảm thông trước
số phận trớ trêu của Kiều và yêu thích sự hài hước, hóm hỉnh của Hồ Xuân Hương.
Nhưng nếu phải đem so sánh, ông vẫn thích tính cách mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương
hơn, còn Kiều thì có vẻ yếu đuối và không tự đấu tranh giải thoát cho mình được.
Hỏi
về những khó khăn khi dịch thơ Hồ Xuân Hương, Balaban cười: “Dịch thơ Việt sang tiếng Anh đã khó, đằng
này lại là thơ Hồ Xuân Hương. Do Hồ Xuân Hương hay dùng cách nói lái. Thơ Hồ
Xuân Hương không chỉ gây nên sự ngạc nhiên mới của người Mỹ về Việt Nam mà còn
giúp chúng tôi tìm thấy một Việt Nam với những tầng sâu văn hóa khác”.
Dưới
đây là những vần thơ lục bát bằng tiếng Việt của Balaban được sáng tác trong thời
gian dịch thơ Hồ Xuân Hương:
Ở bên
trời Mỹ vẫn mơ
Nguồn
sông còn chảy tình lờ lai rai
Trăm
năm tiếng khéo ngân dài
Trên
sông cổ nguyệt nhớ hoài Xuân Hương.
John Balaban
(Ảnh chụp lại qua video clip)
***
(Trích
Hồi Ức Một Đời Người, Chương 10: Thời xuống lỗ)
Hồi
Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
Chương
1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương
2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương
3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương
4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương
5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương
6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương
7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
Chương
8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương
9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác
giả đang viết tiếp Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho
đến ngày xuống lỗ)!
Anh Chính ơi! M xin đưa bài viết này về trang blog và FB bên nhà M. Cám ơn anh.
Trả lờiXóaOK, TTM Gốc Mai.
XóaĐọc rất thú vị !
Trả lờiXóaCám ơn anh Chính. Xin anh cho copy nhé.
Trả lờiXóaXin được copy. Cảm ơn
Trả lờiXóaBài viết rất hay, xin cho phép được phổ biến cho hậu sinh !!!
Trả lờiXóaĐã được đọc hồi ký này khi còn ở Multiply.
Trả lờiXóaXin được copy lại trong blog mới.
Cảm ơn trước.
YHN.
Anh Chính, xin phép anh cho tôi được đăng lại 2 bài về Hồ Xuân Hương ở trang nhà của tôi ở: https://nuocnha.blogspot.com
Trả lờiXóaCám ơn anh trước