Đây là bài thứ 5, và cũng là cuối cùng, trong loạt bài Những cái tên bình dị về Núi & Đèo trải
dài suốt đoạn đường thiên lý từ Nam ra Bắc. Đoạn cuối cùng của hành trình xuyên
Việt lên miền Tây Bắc chúng vượt qua nhiều đèo nhưng nổi bật nhất phải kể đến 4
ngọn đèo nổi tiếng: Pha Đin, Ô Quy Hồ, Mã Pí Lèng và Khau Phạ.
Những cái tên của “tứ đại đèo” này mang âm hưởng ngôn ngữ của
dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng Tây Bắc. Chẳng hạn như đèo Pha Đin có xuất
xứ từ tiếng Thái, “Phạ Đin”, trong đó “Phạ” nghĩa là “trời”, “Đin” là “đất”.
Đèo Pha Đin, theo nghĩa ẩn dụ, chính là nơi giao hòa giữa trời và đất.
Đèo Pha Đin là ranh giới giữa Lai Châu (ngày nay là tỉnh
Điện Biên) và Sơn La. Chuyện xưa kể rằng giữa hai địa phương này có cuộc thi của
hai chàng trai trẻ trên lưng ngựa. Họ xuất phát từ hai đầu của ngọn đèo và chỗ
hai người gặp nhau chính là ranh giới giữa Lai Châu và Sơn La. Kết quả, Lai
Châu phi nhanh hơn nên được phần đèo dài hơn Sơn La.
Ngày nay, ranh giới của đèo Pha Đin một phần thuộc xã Phỏng
Lái, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La và một phần thuộc xã Tỏa Tình, huyện Tuần
Giáo, tỉnh Điện Biên. Điểm cao nhất của đèo là 1.648 mét so với mực nước biển
và được bảng cảnh báo trước khi vào đèo: “dốc cao, vực sâu, rất nguy hiểm” .
Bảng báo hiệu trước khi vào đèo Pha Đin
Đèo Pha Đin dài 32 km trên Quốc lộ 6, nằm trong hệ thống cao
nguyên Tả Phìn, lại một cái tên của người dân tộc thiểu số. Địa thế đèo rất
hiểm trở, chênh vênh giữa một bên là vách núi và một bên là vực sâu. Độ dốc của
Pha Đin thay đổi từ 10% đến 15%, đường đèo có đến gần 10 khúc cua gắt trong đó
có nhiều đoạn hẹp đến độ xe cộ chỉ có thể gần như lưu thông một chiều.
Trong kháng chiến chống Pháp, Pha Đin là một trong những
tuyến huyết mạch để tiếp vận vũ khí, đạn dược và lương thực cho chiến dịch Điện
Biên Phủ năm 1954 của Việt Minh. Có đến khoảng 8.000 “thanh niên xung phong”,
tên gọi các dân công, đã vượt đèo để tiếp tế cho mặt trận Điện Biên Phủ.
Quốc lộ 6 và đèo Pha Đin đã chịu đựng những trận oanh tạc
của người Pháp, liên tục hơn một tháng, trước khi vào trận Điện Biên Phủ, dân
công chịu tổn thất nặng nề. Ngày nay, trên đỉnh đèo có một tấm bia ghi lại dấu
ấn lịch sử và Tố Hữu, trong bài Hoan hô
chiến sĩ Điện Biên, ca ngợi “thanh niên xung phong”:
Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ
Đèo Lũng Lô anh hò chị hát
Dù bom đạn xương tan thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh
Ngày nay, Pha Đin rất ít xe cộ lưu thông nên ngọn đèo lịch
sử này chỉ còn là một điểm đến đối với những người thích phiêu lưu mạo hiểm.
Đứng trên dốc đèo phía tỉnh Điện Biên sẽ thấy thung lũng Mường Quài trải rộng
một màu xanh ngút ngàn của đồi núi, thấp thoáng bản làng, nhưng khi lên đến gần
đỉnh đèo thì chỉ còn mây và núi quyện vào nhau.
Tai nạn trên đèo Pha Đin
Nằm giữa Lào Cai và Lai Châu là đèo Ô Quy Hồ, được mệnh danh
là ngọn đèo “hoành tráng nhất” khu vực Tây Bắc. Đèo Ô Quy Hồ còn có rất nhiều
tên: đèo Hoàng Liên hay đèo Hoàng Liên Sơn do đèo vượt qua dãy núi Hoàng Liên
Sơn, hoặc đèo Mây do trên đỉnh đèo quanh năm mây phủ. Theo người Mông, cái tên
Ô Quy Hồ xuất phát từ một loài chim có tiếng kêu thảm thiết gắn liền với huyền
thoại câu chuyện tình dang dở của một đôi trai gái.
Đèo Ô Quy Hồ nằm trên Quốc lộ 4D với 2/3 thuộc tỉnh Lai Châu
và phần còn lại thuộc phía Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Đây là một con đèo giữ kỷ lục
về độ dài, gần 50 km, có độ cao 2.000 mét nên được gọi là “vua đèo vùng Tây
Bắc”. Đèo uốn lượn quanh dãy Hoàng Liên Sơn, nơi có “nóc nhà Đông Dương” – đỉnh
Fanxipan cao 3.143 m.
Ngày xưa, đèo Ô Quy Hồ đầy hiểm trở, ít người dám qua lại vì
đường quá dài lại có nhiều câu chuyện đường rừng, đại loại như hổ thần rình bắt
người, khiến người đi qua phải rùng mình. Ngày nay, đường đèo được sửa sang và
lượng xe cộ qua lại tấp nập. Để đi từ Hà Nội đến Lai Châu, chúng tôi đi bằng xe
lửa đến Lào Cai và từ đó theo đường bộ vượt đèo Ô Quy Hồ.
Đèo Ô Quy Hồ
Vào mùa đông, đỉnh đèo Ô Quy Hồ có thể phủ băng tuyết và Sa
Pa lả thị trấn duy nhất tại Việt Nam có hiện tượng cây cối, cảnh vật khoác một
lớp băng giá như những khu vực hàn đới trên thế giới. Từ Sa Pa đi thăm Thác Bạc
cách thị trấn khoảng 12 km, vượt qua cổng vườn quốc gia Hoàng Liên Sơn, đi thêm
vài cây số là đã lên đến đỉnh đèo Ô Quy Hồ với mây núi ngút ngàn nên còn được
gọi là Cổng Trời. Phong cảnh thật thi vị nhưng đèo Ô Quy Hồ cũng là một thử
thách đối với các tài xế đường dài.
Sa Pa được coi như Đà Lạt của vùng Tây Bắc với những cơn gió
lạnh cắt da cắt thịt, cả ngày sương mù bao phủ, tầm nhìn không quá 2 m và núi
rừng chìm ngập trong mây. Vào mùa hè, nếu bên đèo Sa Pa khí hậu mát mẻ trong
lành thì bên đèo Tam Đường, những cơn nóng khô hanh sẽ thiêu đốt mặt đất, suối
khô kiệt nước và những thảm cỏ xanh cằn cỗi dưới ánh mắt trời.
Phần lớn các dân tộc như Mông, Dao, Tày, Giáy cư trú tại Sa
Pa đều sống dọc theo thung lũng Mường Hoa, nơi mà con sông Mường Hoa bắt nguồn
từ những con suối nhỏ từ đỉnh núi Fanxipan. Nước từ con sông giúp cho cộng đồng
người thiểu số tại đây canh tác nông nghiệp qua những thửa ruộng “bậc thang”
trên đồi núi.
Bản làng của người thiểu số thường cách khá xa trung tâm thị
trấn Sa Pa ,
muốn đi tới chợ bằng đường mòn thường mất khoảng nửa ngày. Cũng vì thế, người
ta thường phải đi từ thứ Bảy và ngủ qua đêm tại thị trấn để dễ dàng cho buôn
bán vào phiên chợ ngày Chủ nhật. Đêm thứ Bảy thường rất là náo nhiệt, người già
đi thăm hỏi bạn bè, lớp trẻ có cơ hội để tiếp xúc và làm quen với bạn khác
giới.
Điểm đặc biệt là mọi người kết bạn qua tiếng khèn, tiếng sáo
trong đó có chứa đựng tình cảm mà của họ muốn thổ lộ. “Chợ Tình” chính là nơi
trai gái làm quen và được duy trì khá lâu cho tới ngày nay vẫn là hoạt động thu
hút nhiều khách du lịch. Có điều những phiên Chợ Tình thời “văn minh” mất hẳn
bầu không khí hoang dã ngày nào. Thay vào đó là những tiện nghi vật chất như
thanh niên nam nữ đến đây bằng xe gắn máy và âm nhạc thì đã có máy cassette làm
nhiệm vụ…
Chợ Tình Sa Pa
Có người cho rằng Mã Pí Lèng xứng đáng được xem là “đại vực”
của Việt Nam .
Thuộc địa phận ba xã Pải Lủng, Pả Vi và Xín Cái, huyện Mèo Vạc, nằm trên quốc
lộ 4C nối hai huyện Đồng Văn và Mèo Vạc. Mã Pí Lèng với chiều dài 20 km, cao
đến hơn 2.000 m là con đèo hùng vĩ và hoang dại bậc nhất trong các đèo nổi
tiếng vùng Tây Bắc.
Mã Pí Lèng là tên gọi theo tiếng Quan Hỏa, có nghĩa “sống
mũi con ngựa”. Theo nghĩa bóng, tên gọi này chỉ sự hiểm trở của đỉnh núi, nơi
những con ngựa cái leo lên đến đỉnh đèo bị trụy thai mà chết, nơi dốc cao đến độ
ngựa đi qua phải tắt thở, hoặc đỉnh núi dựng đứng như… sống mũi con ngựa.
Ngày xưa, người Mèo (H’mong) thuộc 4 huyện ở phía sau các
dãy núi hùng vĩ của cao nguyên Đồng Văn không có khái niệm về đường xá. Họ chỉ
biết vượt Mã Pí Lèng bằng cách đóng cọc, treo dây trên vách đá để bò qua chín
khoanh đèo hun hút, lởm chởm đá tai mèo dựng đứng. Dốc Chín Khoanh leo tới đỉnh
Mã Pí Lèng còn gọi là con dốc của Giàng (Trời). Chính nơi đây từng là giang sơn
nơi Vua Mèo treo những phần tử chống đối lên cột cho đến chết và sau vua Mèo là
nạn thổ phỉ hoành hành.
Cảnh quan khu vực này lởm chởm đá dựng, vực sâu sông Nho Quế
như xẻ đôi một bên là đỉnh Mã Pí Lèng và một bên là Săm Pun (Sam Pun), nơi có
cột mốc biên giới và cửa khẩu thông thương từ Xín Cái sang Điền Bồng, Trung
Quốc. Các học giả Pháp, từ cả trăm năm trước, đã gọi đỉnh Mã Pí Lèng nói riêng và
Công viên địa chất toàn cầu Cao nguyên đá Đồng Văn nói chung là một “Tượng đài
Địa chất”.
Đèo Mã Pí Lèng thuộc tỉnh Hà Giang nằm trên con đường mang
tên Đường Hạnh Phúc nối liền thành phố Hà Giang, Đồng Văn và thị trấn Mèo Vạc. Con
đường dài khoảng 200 km này được hàng vạn thanh niên xung phong thuộc 16 dân
tộc của 8 tỉnh miền Bắc xây dựng trong 6 năm (1959-1965) với trên 2 triệu lượt
ngày công lao động. Riêng đoạn đèo vượt Mã Pí Lèng được các thanh niên trong
đội cảm tử treo mình trên vách núi, lấn từng bước một để làm trong 11 tháng.
Đứng trên đỉnh đèo, người ta có thể phóng tầm mắt trước những
núi đá nối tiếp nhau trải dài ngút mắt, mơ màng trong sương, mang nét chấm phá
như tranh thủy mạc. Ngay dưới chân lại là vực sâu hoắm mù mây, con sông Nho Quế
dưới lòng vực như một sợi chỉ mong manh vắt qua thung lũng.
Đèo Mã Pí Lèng
Có nhiều người lại coi đèo Mã Phục là đường đèo đẹp nhất
trong các con đèo trên trục đường Quốc lộ 3 từ Phủ Lỗ đến cửa khẩu Tà Nùng,
cách Cao Bằng 22 km. Đường đèo Mã Phục không rộng và không nguy hiểm lắm. Phía Nam con đèo
đường vòng vèo lên dốc tới 4 tầng, nhưng khi lên tới đỉnh đèo thì phía Bắc chỉ
có 2 cái dốc với một khúc cua, đổ dốc phía Bắc là vào địa phận huyện Trùng
Khánh.
Núi không cao, không hùng vĩ, không hoành tráng, Mã Phục chỉ
có những khúc cua tay áo nhưng phong cảnh thật hữu tình, lãng mạn bởi cái thung
lũng bên dưới với ruộng nương, bản làng, chỗ xanh xanh màu cây cỏ, chỗ nâu màu
đất làm thành bức tranh thiên nhiên đẹp thanh bình.
Nhiều người giải thích tên đèo Mã Phục hàm ý ngựa đi trên
đèo cũng phải gục ngã (?) gợi nhớ đến cái cảnh thời ngựa thồ hàng hoá lên biên
giới, đến con đèo này, ngựa khoẻ cũng phải chồn chân. Ngày nay, xe cộ lưu thông
khá dễ dàng trên đèo Mã Phục, vượt 3 tầng đường và 3 khúc cua gắt. Đứng ở tầng
đường thứ 3, đoạn nhô ra cao nhất với tầm nhìn khoáng đãng nhất, du khách sẽ
thấy quang cảnh ruộng nương, bản làng phía xa xa và bắt đầu cảm thấy cái đẹp
của đèo Mã Phục.
Đèo Mã Phục
Đèo Khau Phạ là đèo hiểm trở và dài nhất trên tuyến quốc lộ
32 với độ dài trên 30 km trong khu vực giáp giới giữa huyện Văn Chấn và huyện
Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái. Đèo Khau Phạ đi qua nhiều địa danh nổi tiếng như La
Pán Tẩn, Mù Cang Chải, Tú Lệ, Chế Cu Nha, Nậm Có… có độ cao từ 1.200 m đến
1.500 m.
Trước năm 1945, du kích Khau Phạ đã lợi dụng địa hình và
nương theo mây gió quánh đặc trên đèo, “xuất quỷ nhập thần”, liên tục đánh chặn
các cuộc hành quân của Pháp từ Nghĩa Lộ đi Lai Châu, Lào Cai bằng súng kíp hoặc
bẫy đá. Người Pháp gọi họ “những chiến binh mây mù”…
Khau Phạ, tiếng Thái là Sừng Trời, hàm ý chiếc sừng núi đâm
lên tận trời xanh, cho nên đôi khi còn được gọi là Cổng Trời. Người H'Mông coi
đèo Khau Phạ là nơi linh thiêng có thể than thấu lòng trời, nên mỗi khi gặp
chuyện chẳng lành, mùa màng thất bát, họ lại kéo nhau tới Khau Phạ để khấn
Giàng.
Đèo Khau Phạ, một trong những đường đèo quanh co và dốc đứng
bậc nhất Việt Nam, có điểm khởi đầu là đoạn cắt Quốc lộ 32 với Quốc lộ 279 liền
mạch liên tiếp với đèo Chấu phía trước nó và đèo Vách Kim phía sau trên Quốc lộ
32.
Từ thành phố Yên Bái, ngược quốc lộ 32 chừng 5 giờ đồng hồ,
qua xã Tú Lệ, đèo Khau Phạ huyện Mù Cang Chải hiện ra giữa một vùng cao nguyên
được bao quanh bởi những dãy núi điệp trùng. Những cung đường đèo quanh co giữa
những cánh rừng già còn mang đậm nét nguyên sơ và những triền ruộng bậc thang
của các dân tộc H'Mông, Thái.
Đèo Khau Phạ
Bà huyện Thanh Quan đã đem vào kho tàng thi ca Việt Nam
bài thơ Qua Đèo Ngang, nhưng bà cũng
không phải là người duy nhất đã đưa đường đèo vào văn chương. Chúng ta còn có
“Bà chúa thơ nôm” Hồ Xuân Hương [*] cũng dùng hình tượng những ngọn đèo nhưng
lại để tả chân chuyện trần tục chứ không tả cảnh lãng mạn như Bà huyện Thanh
Quan:
Một đèo, một đèo, lại một đèo,
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo.
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đià lá liễu giọt sương gieo.
Hiền nhân, quân tử ai là chẳng ...
Mỏi gối, chồn chân vẫn muốn trèo.
Ngay từ câu đầu, tác giả nhắc đến 3 lần chữ đèo “Một đèo, một đèo, lại một đèo” không
những là nghệ thuật láy chữ mà còn ám chỉ tới 3 đoạn đèo nằm giữa hai tỉnh Ninh
Bình và Thanh Hóa. Đó là đèo Tam Điệp, tên gọi chính thức trong sử sách và địa
lý cổ Việt Nam , chỉ con
đường thiên lý từ Thăng Long vào phía Nam .
Đèo Tam Điệp là một tổ hợp đèo trên núi Tam Điệp, một dãy
núi nằm giữa Ninh Bình và Thanh Hóa, chạy ra biển theo hướng tây bắc – đông
nam, có 3 đường đèo nên còn có tên là Đèo Ba Dội với hàm ý ba đợt hoặc ba lớp…
Ba đèo bao gồm đèo phía Bắc cao khoảng 90 m, đèo phía Nam
thấp hơn và đèo giữa là con đường thiên lý cổ băng qua đỉnh núi cao nhất và
cũng là đỉnh đèo cao nhất (khoảng 110 m). Ở đây có tấm bia khắc bài thơ Quá Tam Điệp sơn của vua Thiệu Trị làm
năm 1842 khi đi tuần du qua núi Tam Điệp. Ngày nay, con đường thiên lý cổ chỉ
còn là một lối mòn nhỏ, nhiều chỗ cây cối mọc um tùm.
Trước kia đèo giữa là nơi phân ranh giới giữa hai trấn Thanh
Hoa nội và Thanh Hoa ngoại đời Hậu Lê, giữa hai tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa đời
nhà Nguyễn. Nhưng ngày nay, do phân chia lại địa giới, đèo giữa và đèo phía nam
thuộc đất thị xã Bỉm Sơn, Thanh Hóa. Chỉ còn đèo phía bắc thuộc thị xã Tam
Điệp.
Như vậy, đường thiên lý cổ từ Thăng Long đi đến thị xã Tam
Điệp, đến đền Dâu, cách Hà Nội 111 km, thì đi vòng về phía đông nam quốc lộ 1A
ngày nay, lách qua một số núi đá vôi để vượt qua ba đỉnh đèo Tam Điệp, đến đền
Sòng tiếp tục đi vào đồng bằng Thanh Hóa. Đền Dâu và đền Sòng là 2 đầu của cái
võng đường Thiên lý cổ qua đèo Tam Điệp. Đoạn võng này dài hơn đoạn đường Quốc
lộ nắn thẳng ngày nay từ đền Dâu đến đền Sòng khoảng gần 5 km.
Hóa ra bài thơ Đèo Ba
Dội, còn có tên là Vịnh ba đèo, của
Hồ Xuân Hương vừa thực lại vừa giả. Thực ở chỗ bà đã phải vượt cả ba ngọn đèo
Tam Điệp và giả ở lối mô tả “đem thiên nhiên vào cơ thể con người”:
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu.
Và kết luận bằng một triết lý rất “đời thường”:
Hiền
nhân, quân tử ai là chẳng ...
Mỏi gối, chồn chân vẫn muốn trèo.
Xin được kết thúc loạt bài về những cái tên bình dị của Núi
& Đèo bằng một bức ảnh tôi tình cờ gặp được trên Internet. Bức ảnh rất…
“tươi mát” với 4 câu thơ “nhại” của nữ sĩ Hồ Xuân Hương và ký tên Lonely. Tôi
nghĩ, tác giả những câu thơ này không Cô Đơn như biệt danh đã chọn, ngược lại,
rất nhiều người chia sẻ với anh, trong đó có tôi.
Hình tượng hóa và nhại lại bài thơ ‘Đèo Ba Dội’ của Hồ Xuân Hương
***
Chú thích:
[*] Hồ Xuân Hương là nhà thơ Nôm nổi tiếng
(1772-1822). Bà đã để lại nhiều bài thơ độc đáo với phong cách thơ vừa thanh
vừa tục và được mệnh danh là Bà chúa thơ
Nôm. Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu của văn
học Việt Nam .
Tiểu sử của Hồ Xuân Hương đến nay vẫn còn nhiều điểm gây
tranh cãi; thậm chí có một vài ý kiến còn cho rằng những bài thơ được xem là
của Hồ Xuân Hương hiện nay do nhiều người sáng tác, nghĩa là không có ai thực
sự là Hồ Xuân Hương. Dựa vào một số tài liệu lưu truyền, những bài thơ được
khẳng định là của Hồ Xuân Hương, các nhà nghiên cứu đã tạm thừa nhận một số kết
luận bước đầu về tiểu sử của nữ sĩ:
Hồ Xuân Hương thuộc dòng dõi họ Hồ ở làng Quỳnh Đôi, huyện
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đây là một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm
quan nhưng đến đời Hồ Phi Diễn - thân sinh của bà - thì dòng họ này đã suy tàn.
Theo các nhà nghiên cứu đầu tiên về Hồ Xuân Hương như Nguyễn
Hữu Tiến, Dương Quảng Hàm thì bà là con ông Hồ Phi Diễn (sinh 1704) ở làng
Quỳnh Ðôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Ông thi đậu tú tài năm 24 tuổi dưới triều
Lê Bảo Thái. Nhà nghèo không thể tiếp tục học, ông ra dạy học ở Hải Hưng, Hà
Bắc, để kiếm sống. Tại đây ông đã lấy cô gái Bắc Ninh, họ Hà, làm vợ lẽ - Hồ
Xuân Hương ra đời là kết quả của mối tình duyên đó.
Bà xuất thân trong một gia đình phong kiến suy tàn, song
hoàn cảnh cuộc sống đã giúp nữ sĩ có điều kiện sống gần gũi với quần chúng lao
động nghèo, lăn lộn và tiếp xúc nhiều với những người phụ nữ bị áp bức trong xã
hội.
Bà là một phụ nữ thông minh, có học nhưng học hành cũng
không được nhiều lắm, bà giao du rộng rãi với bạn bè nhất là đối với những bạn
bè ở làng thơ văn, các nhà nho. Nữ sĩ còn là người từng đi du lãm nhiều danh
lam thắng cảnh của đất nước.
Là một phụ nữ tài hoa có cá tính mạnh mẽ nhưng đời tư lại có
nhiều bất hạnh. Hồ Xuân Hương lấy chồng muộn mà đến hai lần đi lấy chồng, hai
lần đều làm lẽ, cả hai đều ngắn ngủi và không có hạnh phúc. (Nhưng theo tài
liệu của GS Hoàng Xuân Hãn và ông Lê Xuân Giáo thì nữ sĩ có tới 3 đời chồng chứ
không phải hai: Tổng Cóc, quan Tri phủ Vĩnh Tường, và cuối cùng là quan Tham
hiệp trấn Yên Quảng Trần Phúc Hiển).
Có thể thấy Hồ Xuân Hương không phải là một phụ nữ bình
thường của thời phong kiến mà bà đã có một cuộc sống đầy sóng gió.
(Nguồn: Wikipedia)
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương
***
(Trích Hồi Ức Một Đời
Người, Chương 8: Thời mở cửa)
Hồi Ức Một Đời Người
gồm 9 Chương:
Chương 1: Thời thơ ấu
(từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên
thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh
niên (Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân
ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo
(Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu
linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng
(những chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa
(Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội
nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả đang viết tiếp Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến
ngày xuống lỗ)!
Tôi đã đọc đôi bài của bác và thấy hấp dẫn, xin phép dăng lại bài về tướng Giáp _ Huy Đức từ trang bác. Hồi ức của bác hay, rỗi rãi tôi sẽ xem tiếp. Thanks!
Trả lờiXóa