Thứ Hai, 13 tháng 1, 2014

Đầu năm nói chuyện… tham nhũng & hối lộ

Không phải là tình cờ mà tôi chọn đề tài “tham nhũng & hối lộ” để khai bút muộn, mừng năm mới 2014. Thay vì những đề tài nhẹ nhàng, vui vẻ hơn, tôi chào đón năm 2014 với một vấn đề gây bức xúc trên toàn thế giới từ bấy lâu nay đến độ Liên Hiệp Quốc phải vào cuộc. Ngày 31/10/2003 tổ chức quốc tế này đã thông qua Nghị quết 58/4 với tên gọi “Công ước Liên Hiệp Quốc phòng chống tham nhũng” có nguyên gốc tiếng Anh là United Nations Convention Against Corruption, được viết tắt là UNCAC.

Hiệp ước có hiệu lực từ ngày 14/12/2005, sau khi hội đủ 30 quốc gia đầu tiên phê chuẩn. Tính đến ngày 1/7/2009, đã có 140 chữ ký phê chuẩn, chấp nhận và chấp thuận của 136 quốc gia. Gần đây nhất là Việt Nam cũng đã phê chuẩn UNCAC vào ngày 19/8/2009.

Để chống lại tham nhũng, công ước quy định những quy ước và chuẩn mực chung về các vấn đề chính bao gồm: 

  1. Công tác phòng chống tham nhũng; 
  2. Hình sự hóa tội phạm tham nhũng; 
  3. Thu hồi tài sản bị thất thoát và 
  4. Hợp tác quốc tế và hỗ trợ kỹ thuật.

Mối tương quan giữa tham nhũng và hối lộ

Tham nhũng và hối lộ luôn luôn “đồng hành” như hình với bóng nhưng lại có hai phạm trù riêng biệt: một bên “đưa” và một bên “nhận”, người có chức, có quyền mới tham nhũng và những kẻ yếu thế hơn mới đưa hối lộ. Hiện tượng này xảy ra trên khắp thế giới, ở cả các nước giàu cũng như nghèo, tiến bộ cũng như chậm tiến. Tham nhũng và hối lộ cũng diễn ra vào bất cứ thời đại nào, từ cổ chí kim, nhưng chưa ai có thể xác định tệ nạn này bắt đầu từ đâu và từ bao giờ.   

Học giả Vương Hồng Sển [*] đã viết trong tác phẩm Hơn nửa đời hư như sau: “Hối lộ là một độc dược thâm căn cố đế, mọc gốc mọc rễ từ nhiều đời, không biết Đông có trước hay Tây có trước, duy biết nay đã tràn đồng, nước nào cũng có, đời nào cũng có, dây dưa thời bình như thời loạn, lúc thạnh như lúc suy…”

Hối lộ còn được gọi qua những từ ngữ khác như mãi lộ, đút lót… là hành vi đưa tiền, hoặc vật phẩm có giá trị, hoặc những thứ khác khiến cho người nhận cảm thấy hài lòng. Từ đó, người nhận hối lộ sẽ giúp đỡ người hối lộ qua hình thức thực hiện các hành vi trái pháp luật, trái lương tâm hoặc làm hại đến người khác.

Đặc điểm chung, người nhận thường là những người có khả năng ảnh hưởng hoặc chi phối đến người khác hay công việc khác. Tiền là thứ phổ biến nhất để hối lộ. Thời phong kiến, người ta còn dùng vàng, bạc, ngọc ngà, châu báu hoặc của ngon vật lạ để mua chuộc cảm tình của người có chức, có quyền.

Người ta thường nói đến “bổng lộc” của các quan chức. Chữ “bổng” luôn đi kèm chữ “lộc”, một đằng là tiền lương chính thức nhận được và một đằng là lộc “của trời cho”. Theo quan niệm xưa, cái lộc đó đến một cách tự nhiên nhưng những ai đòi lộc về mình tức là đã đòi của hối lộ. 

Trong Chuyện đời xưa, Trương Vĩnh Ký có kể chuyện nhờ đút sáp cho cọp ăn mà khỏi chết. Chuyện được diễn trong tuồng hát bội, anh hề kể lại, “Ý cha chả! Hôm trước tao đi ăn ong về, gặp ông cọp, tưởng đã xong đời rồi… cũng may, tao có vác một bó sáp trên vai, tao mới chàng hảng ra, tao đút sáp ra đằng sau, ổng chạy theo ổng táp, mắc nhai sáp, tao chạy thoát…”.

Câu chuyện chỉ có vậy nhưng quả là thâm thúy. Ăn đàng sau tức ăn dưới trôn. Đi làm một chuyện gì, tỉ như nay ta đi làm áp phe, giả cớ gọi đi… ăn ong. Quan thì gọi ổng nầy ổng kia và muốn cho ổng ăn cứ chàng hảng ra, đút cái ấy dưới háng ổng vẫn táp như thường!

Thời Pháp thuộc, có những viên chức trọn một đời làm công bộc không nhận của hối lộ, đến khi trở về già sống trong cảnh thanh bần mà vẫn vui vì lương tâm thanh thản. Nhưng cũng có những người thấy bạn đồng liêu đã từng nhận tiền “lì xì” nay vợ con đều ấm no, sung sướng, bất giác than thở: “Phải chi mình cũng làm như họ thì giờ đây đã khác!”. 

Đối với những người đã hối tiếc không ăn của hối lộ lúc còn tại chức, Vương Hồng Sển đã đưa ra một nhận xét: “Một lời nói khiến bao nhiêu tiếng thơm trong sạch đều trôi sông trôi biển, vì xã hội có thể tha thứ một con điếm ăn năn, nhưng vẫn không dung một ông quan ưa ăn vụng”.

Tác giả Hơn nửa đời hư kể lại chuyện trước đây, lúc Nam Kỳ còn hội đồng Quản hạt, trong một phiên nhóm đại hội, De la Chevrotière là quan thực dân hạng nặng, công kích hàng phủ, hàng huyện và mấy ông thông phán toà án, rằng họ ăn lương không bao nhiêu mà ông nào cũng có ruộng, có vườn, có nhà lầu, xe hơi, trong khi đó, các quan toà, quan chánh án Pháp về hưu nghèo khổ.

Chevrotière đang ngon trớn thì một viên chức người bản xứ, ông Nguyễn Phan Long, đứng dậy, ông nói chỉ một câu mà quan thực dân phải ngồi xuống vì bẽ mặt: “Xin lỗi, danh từ “pot-de-vin” phải chăng người gô-loa có sẵn? Chớ phải nào của ông cha chúng tôi bày đặt!”.

Người Pháp dùng danh từ “pot-de-vin”, hiểu theo nghĩa đen là hũ rượu nhưng nghĩa bóng là hối lộ vì theo tích xưa, người Pháp có việc dâng rượu nguyên hũ, nguyên vò để mua chuộc lòng người.

Tham nhũng & Hối lộ = Tù tội

Tại Việt Nam dưới thời Pháp thuộc Sở Thuế Thân là nơi “ngon lành” nhất và no đủ nhất: nếu chỉ tính ở một địa phương có 20.000 dân đinh đến tuổi chịu thuế, chỉ cần một nửa số “biết điều”, mỗi đầu người chỉ cần “ăn” 5 cắc là một năm các quan chức có thể kiếm được 50.000 đồng!

Sở Hành Chánh cũng quan trọng không kém và “ăn” cũng không ít. Các ông hương chức muốn được vinh thăng huyện hàm, phú hàm, hoặc muốn tiến cử làm hội đồng tỉnh hay cử làm sung biện, ban biện, phó tổng đều phải đội mâm “có sấp nhiều bộ lư” hoặc “cỡi voi” đến nói chuyện… Lư và voi là giấy bạc một trăm thời Pháp thuộc.

Vương Hồng Sển nói về một ông chánh án người Pháp, tên Bernard, trước kia có vợ Việt còn “ăn” một cách công khai, trắng trợn:

“Ông có sắm một chiếc tam bản cho lính chèo để dành rước từ bên sông mé chợ những ai muốn sang sông qua “nói chuyện” với ngài thì khỏi tốn tiền đò, và ngài nhận lễ tại trong dinh cho thêm phần kín đáo… Ngài mập cho đến mặt bàn phải khoét lỗ chứa cái bụng nước lèo ngài mới với ký tên tới mặt giấy tờ, khi đi tiêu phải dùng khăn bàn lông kéo như kéo đờn cò chớ tay ngài với không tới trôn, và khi lên thang lầu phải có hai tên tuỳ phái đỡ cái bụng phệ nâng lên thì ngài mới bước lên nấc thang được, y như trên sân khấu lúc Đổng Trác bước lên xe loan hay lên ngai rồng…”

Hình ảnh ông chánh Barnard với cái bụng thuộc loại “thùng nước lèo” khiến ta liên tưởng tới một quan chức người Mỹ của hãng Apple ngày nay, ông ấy cũng có “một cái bụng thật tốt”. Đó là Paul Shin Devine, người đã nhận tiền hối lộ lên đến một triệu đô la của các công ty châu Á chuyên cung cấp thiết bị cho Apple.

Chính công ty Apple đã khởi đơn kiện, FBI (Cục điều tra liên bang) và IRS (Sở thuế vụ) đã vào cuộc để phanh phui “người tốt bụng” đã nuốt đến hơn 1 triệu USD và rất nhiều món quà hối lộ có giá trị khác.

“Người tốt bụng” Paul Shin Devine

Cũng vẫn chuyện nước Mỹ nhưng lại có liên quan đến Việt Nam. Michael T. Sestak đã từng là viên chức đứng đầu bộ phận cấp thị thực (visa) tại Lãnh sự quán Mỹ tại Sài Gòn từ tháng 8/2010 tới 9/2012.

Theo hãng AP, đưa tin ngày 5/11/2013, Sestak đã thú nhận một số tiền hối lộ lên đến 3 triệu đô la, gấp 3 lần Paul Shin Devine, dĩ nhiên là tiền đó của người Việt Nam xin visa vào Mỹ. Sestak chỉ mới 42 tuổi và anh chàng này cũng đã đồng ý trả lại tiền thu được do phạm tội, trong đó có tiền bán 9 cơ ngơi đã từng mua ở Thái Lan, và có nguy cơ đối mặt với án phạt tù từ 19-24 năm.

Cựu nhân viên lãnh sự quán này nhận tiền bán visa qua tài khoản của một ngân hàng Trung Quốc, rồi lại chuyển qua tài khoản mà anh ta bí mật mở ở Thái Lan. Sestak bị bắt vào tháng 5/2013 ở nam California.

Trước đó, ba đồng phạm của Sestak là Binh Vo, 39 tuổi, và em gái Hong Vo, 27 tuổi, cùng Truc Tranh Huynh, 29 tuổi, lần lượt bị cảnh sát Mỹ bắt giữ vào tháng 9, tháng 5 và tháng 6. Ngoài ra, các công tố viên còn xác định một nghi phạm khác là Anhdao Thuy Nguyen, hay Alice Nguyen, vợ của Binh Vo, trong đường dây gian lận visa này.

Cũng theo AP, những người Việt xin cấp thị thực vào Mỹ đã phải trả từ 15.000-70.000 USD và theo các nhân viên điều tra, có ít nhất 500 đơn xin visa gian lận đã qua tay Sestak. Từ ngày 1/5 đến ngày 6/9/2012, lãnh sự quán Mỹ tiếp nhận 31.386 hồ sơ xin visa phi di dân và từ chối 35,1%. Trong số đó, Sestak xử lý 5.489 đơn xin visa và chỉ từ chối 8,2%.

Thế mới biết, dân Việt nói chung thì rất nghèo nhưng một thiểu số “đại gia”, cả xanh lẫn đỏ, vẫn thừa đô la xanh để mua đứt Sestak.
 
Cựu nhân viên Lãnh sự quán Mỹ tại Sài Gòn, Michael T. Sestak
(Ảnh Usconsulate.gov)

Người Mỹ dùng từ ngữ “bribery” để chỉ hành động hối lộ. Họ còn dùng tiếng lóng “kickback” để chỉ “tiền hoa hồng”, nói theo kiểu miền Bắc là “tiền lại quả”, hay nói chung là tiền hối lộ qua hình thức “under the table” trong cuộc thương lượng ngầm.

Câu thuyện “thương lượng ngầm” tai tiếng nhất giữa Úc và Việt Nam xảy ra năm 2002 khi Việt Nam chuyển qua dùng tiền in trên nhựa polymer thay vì trên giấy thường. Securency, một công ty Úc, trong đó Ngân hàng Trung ương Úc nắm 50% cổ phần, đã giành được hợp đồng in tiền béo bở này.

Thế nhưng gần đây, nhật báo Úc The Age đã tiết lộ rằng công ty Úc đã dành được hợp đồng nói trên nhờ tung ra hàng triệu đô la để hối lộ tại Việt Nam có dính líu đến quan chức nhà nước của cả hai bên. The Age nêu rõ tính danh một doanh nhân Việt Nam là trung tâm điểm của vụ tham nhũng lên đến hơn 12 triệu đô la Úc, tương đương với gần 11 triệu đô la Mỹ. Nhân vật này là ông Lương Ngọc Anh, Tổng giám đốc Công ty Phát triển Công nghệ CFTD ở Hà Nội.

Theo nhật báo Úc, trong thời gian qua, công ty Securency đã chuyển cho ông Lương Ngọc Anh và công ty của ông số tiền bạc triệu kể trên, bản thân ông Anh nhận được hơn 5 triệu đô la. Một phần trong các món tiền này, gọi là ''tiền hoa hồng'' (commissions) đã được chuyển vào các tài khoản ở ngoại quốc, đặc biệt là ở Thụy Sĩ.

Vấn đề chính là luật pháp chống hối lộ hiện hành tại Úc nghiêm cấm việc trả tiền cho các quan chức chính quyền hay các công ty do chính phủ ngoại quốc kiểm soát để giành lợi thế trong công việc kinh doanh. Nếu cuộc điều tra do Cảnh sát Liên bang Úc đang tiến hành xác định là các lãnh đạo điều hành công ty Securency biết rõ là ông Lương Ngọc Anh làm việc cho chính phủ Việt Nam, thì họ có thể bị kết án đến 10 năm tù.

Về phiá Việt Nam, nhật báo Úc The Age đã từng tiết lộ cho rằng sở dĩ Securency thắng được hợp đồng in tiền polymer cho Việt Nam đó là nhờ thuê được một “công ty  trung gian môi giới”, nơi có con trai của cựu thống đốc Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam Lê Đức Thúy làm việc. Việt Nam đã chọn tiền Polymer vào lúc ông Thúy tại chức.

Ngay từ năm 2007, khi vụ hối lộ này bắt đầu thu hút sự chú ý của dư luận, Công ty Securency từng khẳng định là chỉ thuê công ty Công ty Phát triển Công nghệ CFTD ở Hà Nội làm “một số công việc biên dịch và phiên dịch, cũng như giúp liên lạc với Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam'”.

Câu hỏi đặt ra là nếu danh chính ngôn thuận như thế thì tại sao số tiền thù lao cho ông Lương Ngọc Anh và Công Ty CFTD ở Hà Nội lại cao đến thế, và nhất là lại được chuyển vào các tài khoản ở ngoài Việt Nam. Theo báo The Age, cả Công ty Securency lẫn Ngân Hàng Trung ương Úc đều từ chối giải thích.

Ngoài Lương Ngọc Anh, một số quan chức Úc có liên quan đến vụ in tiền polymer gồm bà E. Masamune (viên chức cao cấp Austrade), David Twine (Giám đốc Ðông Nam Á của Austrade), Vipin Khanma (tay lái súng ở Ấn Ðộ), và Cliff Gerathy (Giám đốc Điều hành Securency).


Hình minh họa vụ Securency trên báo The Age

Gần đây nhất, nhân vật đã khiến báo chí trong và ngoài nước tốn không ít giấy mực là Dương Chí Dũng, nguyên Cục trưởng Cục hàng hải Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines), Ủy viên Thường vụ Đảng ủy khối doanh nghiệp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đại biểu Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam XI toàn quốc.

Trong phiên xử sơ thẩm ngày 16/12/2013 Dương Chí Dũng bị tuyên án tử hình về tội tham ô, 28 năm tù về tội “cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Vụ xử này được báo chí quốc tế nhiều hãng thông tấn, báo chí lớn của nước ngoài đều đưa tin và nhận định bản án tử hình dành cho ông này là một nỗ lực của Việt Nam trong cuộc chiến chống tham nhũng.

Dương Chí Dũng là con trai của ông Dương Khắc Thụ, nguyên Đại tá Giám đốc Công an Thành phố Hải Phòng trong thập niên 1970-1980. Các anh em của Dương Chí Dũng đều công tác tại Công an Thành phố Hải phòng. Em trai là Đại tá Dương Tự Trọng từng giữ chức vụ Phó Giám đốc CA Hải Phòng, sau đó được thăng cấp lên Cục phó Cục Cảnh sát Quản lí Hành chính về trật tự xã hội và em rể, Nguyễn Bỉnh Kiên, nguyên Phó Giám đốc Công an TP Hải Phòng, em gái là Băng Tâm cũng thuộc Công an PC 25 Hải Phòng.

Trước khi làm lãnh đạo Vinalines, Dương Chí Dũng đã từng quản lý Tổng Công ty Xây dựng Đường thủy (Vinawaco), một đơn vị bị thua lỗ nặng. Ông Dũng được bổ nhiệm chức Tổng giám đốc Vinalines từ tháng 8/2005 đến tháng 7/2011, ông còn được bổ nhiệm giữ chức Chủ tịch Hội đồng quản trị tổng công ty này.

Cục Cảnh sát phòng chống tham nhũng đã phát hiện những sai phạm trong việc thực hiện lắp đặt ụ nổi thuộc dự án nhà máy sửa chữa tàu biển Vinalines phía nam. Tháng 2/2012, Cơ quan cảnh sát điều tra quyết định khởi tố bắt tạm giam 4 bị can có liên quan đến hành vi tham ô tài sản. Trong số này có Trần Hải Sơn - Tổng giám đốc Công ty TNHH sửa chữa tàu biển Vinalines.

Theo đó, các bị can này đã có dấu hiệu nâng giá vật tư, quyết toán khống trong việc sửa chữa ụ nổi để chiếm đoạt số tiền trên 2,5 tỉ đồng. Trong quá trình điều tra, Cục Cảnh sát phòng chống tham nhũng đã phát hiện có nhiều dấu hiệu sai phạm trong việc đầu tư dự án nói chung và mua sắm ụ nổi nói riêng.

Theo điều tra của Cục Cảnh sát phòng chống tham nhũng, khi chưa được Thủ tướng phê duyệt thì ngày 27/6/2007, Chủ tịch HĐQT Vinalines đã ký quyết định phê duyệt dự án nhà máy sửa chữa tàu biển tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu với tổng mức đầu tư 3.854 tỉ đồng. Tuy nhiên, dự án này sau đó đã bị đội lên thành 6.489 tỉ đồng.

Tương tự, việc mua sắm ụ nổi cũng đã bị đội giá lên gấp đôi so với dự toán ban đầu. Vinalines đã tự ý quyết định đầu tư khi chưa được Bộ Giao thông Vận tải cập nhật dự án vào quy hoạch và dự án này cũng chưa trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.

Ngày 18/5/2012, sau khi ra quyết định khởi tố, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã làm việc với Bộ Giao thông Vận tải, ngay sau đó Bộ này đã có quyết định đình chỉ công tác với Dương Chí Dũng. Ngày 19/5/2012, Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định truy nã đối với ông Dương Chí Dũng khi đương sự bỏ trốn khỏi Việt Nam.

Theo nhận định của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Bộ Công an “đây là vụ án gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng cho nhà nước, có tính chất phức tạp, gây nhức nhối trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng đến uy tín của chính phủ Việt Nam”.

Dương Chí Dũng (giữa) và 9 đồng phạm trong vụ đại án tham nhũng ở Vinalines
(Ảnh TTXVN)

Các hình thức đưa và nhận hối lộ truyền thống ngày nay còn có những biến tướng khó lường. Người ta muốn nói đến hình thức hối lộ “phi vật chất”, chẳng hạn như “hối lộ tình dục”, người đưa hối lộ bằng cách phục vụ tình dục để mong đạt được lợi ích. Một cô gái trẻ thích hào quang của thế giới showbiz chọn con đường sẵn sàng hiến dâng thân xác cho một ông bầu show tên tuổi để đạt được “tham vọng”.

Người ta cũng có thể hối lộ bằng cách cung cấp thông tin cho “sếp” để mưu cầu lợi ích cá nhân, người nhận hối lộ cũng nhận được lợi ích từ thông tin được cung cấp, chẳng hạn như tiết lộ bí mật thương mại trong cạnh tranh, thông tin “mật” về các vụ án hoặc các tin tức về thăng quan tiến chức, thuyên chuyển hoặc “giảm biên chế”…

Còn có một hình thức khác, tạm gọi là “hối lộ thành tích” giữa cấp trên và cấp dưới trong cùng hệ thống, cùng ngành. Người đưa hối lộ cố ý chuyển thành tích công việc của mình cho cấp trên hưởng lợi hoặc có trường hợp cấp trên muốn được thăng chức cao hơn nên cố ý chiếm thành tích của nhân viên. Thường thì khi được thăng chức cao hơn, cấp trên sẽ điều động cấp dưới lên vị trí cao hơn, có lợi hơn, và như vậy việc tham nhũng-hối lộ được dựa trên nguyên tắc… hai bên cùng có lợi.

Những dịp đặc biệt như ngày Tết, trung thu, sinh nhật, cưới hỏi cũng là cơ hội tốt để hối lộ một cách… công khai. Quà cáp tặng trong dịp này thường là những món “trên mức bình thường” nhằm mục đích hối lộ. Việc trao đổi này thực sự mang lại lợi ích lớn đối với cả hai phía cho & nhận và cái mà cả hai mất là không đáng kể so với những gì họ cho hoặc nhận.

Chẳng hạn người hối lộ bỏ ra 10 triệu để có thể được ưu tiên khai thác khu đất tốt, sinh lời đến 100 triệu, trong khi người nhận hối lộ “chẳng mất gì”, hay đúng ra họ tự hiểu khi nhận 10 triệu mình sẽ “chiếu cố” người đưa hối lộ và như vậy cái mà họ mất đi chính là danh dự, uy tín, đạo đức của chính mình.

Mặt khác, hành vi trao đổi “lợi ích” giữa hai người đã ảnh hưởng đến lợi ích chung của cả xã hội. Hành động hối lộ này rõ ràng là “gian lận” vì lợi dụng “mối quan hệ ràng buộc” đã cướp lấy cơ hội đáng lẽ ra của người khác.

Phong bì hối lộ

Từ bao đời nay, người Việt có truyền thống tặng quà tết như rượu chè, bánh trái để bày tỏ mối thân tình vì thực lòng quý mến nhau. Giá trị vật chất của những món quà này chẳng đáng là bao nhưng cái giá trị tinh thần mới là điều quan trọng. Nhìn qua khía cạnh đạo đức, đây là một hình thức biểu thị tình cảm giữa người cho và kẻ nhận.

Tuy nhiên, khi nhận một bao gạo thơm đầu mùa của gia đình đứa học trò nhà giàu đem biếu thì thầy giáo phải chăng đã nhận của lễ trá hình? Khi bác sĩ nhận một chục hột gà của thân nhân bệnh nhân đem biếu ta có gọi đó là “đút lót” hay không? Ranh giới giữa quà biếu và quà hối lộ thật mong manh khiến người nhận luôn cảm thấy lương tâm áy náy.

Thời nay lại khác, quà tết lại là phong bì, thậm chí là cả một số tiền lớn chuyển vào tài khoản. Hành động lách luật này vô hình dung có điều kiện để tồn tại công khai, và ảnh hưởng xấu của nó lại được che giấu đi khiến lợi ích của xã hội bị tổn hại.

Hành vi tặng quà tết nhằm mục đích hối lộ vẫn xảy ra ngày càng mạnh mẽ hơn đang gây tổn hại lớn hơn. Có khi nó còn là hành động “ăn cắp” một cách trắng trợn qua việc mua chuộc và tham ô tiền bạc và tài sản của người khác.

Một nghiên cứu cho thấy số người sử dụng phong bì trong dịch vụ y tế tăng gấp đôi trong vòng ba năm, từ 13% (năm 2007) lên đến 29% (năm 2010). Năm 2012, kết quả cuộc khảo sát được công bố bởi Ngân hàng Thế giới và Thanh tra Chính phủ của Việt Nam (được thực hiện bởi Cục Chống tham nhũng) cho thấy 76% những người đút phong bì là tự nguyện và 21% là do được gợi ý.

Phong bì & Bệnh viện

Tại Việt Nam, việc cấm tặng quà cấp trên không phải là điều mới lạ nhưng việc kiểm soát không nghiêm nên vẫn tiếp diễn, thậm chí có khả năng tăng dần trong mấy năm qua, nhất là vào các dịp đặc biệt như lễ tết...

Nhiều người thắc mắc, từ trước đến nay chỉ cấm có một “vế”, tức là cấm người biếu, còn vế thứ hai không cấm, đó là người nhận. Có người lại thắc mắc, “Cấm tặng quà cho sếp chứ đâu có cấm tặng vợ và người thân của sếp?”.

Nhìn chung, tham nhũng và hối lộ là một hoạt động được thực hiện như một “giao dịch ngầm” giữa người cho và kẻ nhận. Mà đã là “kín đáo” thì làm sao con mắt của pháp luật có thể soi mói được, trừ khi bị phanh phui, điều tra…

Một cái bắt tay… bằng đống Euro

Trên tờ Tiền Phong, Đại bểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị, Lê Như Tiến, cũng cho rằng, bây giờ quà trở thành giá trị vật chất lớn. Có người ngày Tết tặng quà nhau mấy chục ngàn đô la Mỹ, tặng chai rượu ba bốn mươi năm, trị giá hàng chục triệu đồng hoặc quà vật chất trị giá hàng trăm triệu đồng.

Ông lý giải: “Quà chỉ còn mang ý nghĩa vật chất, sự trả ơn cho những thứ anh đã cho tôi như đã thăng chức, đã tạo điều kiện cho tôi làm ăn. Đấy là sự trả ơn mang tính chất vụ lợi, là một loại lợi ích nhóm”.

Một quan chức cấp cao trong chính phủ nói, “Riêng vấn đề nhận quà trong dịp lễ Tết, tôi nghĩ không còn cách nào khác là bản thân lãnh đạo phải tự cảnh giác, nghiêm túc thực hiện quy định cấm từ cấp cao xuống các địa phương. Bên cạnh đó cần phát huy hơn nữa sự giám sát của nhân dân, cơ quan cũng cần tăng cường kiểm soát cán bộ”.

Nói thì rất dễ nhưng làm thế nào để biến những lời nói thành hành động cụ thể quả là một vấn đề nhức nhối từ ngàn xưa để lại.

Không đi chúc Tết người ta
Người ta tự ái khó mà an thân!

***

Chú thích:

[*] Đọc thêm về tác giả Vương Hồng Sển qua bài viết “Cà phê Sài Gòn Xưa & Nay” tại

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 10: Thời xuống lỗ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)

Tác giả đang viết tiếp Chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!

10 nhận xét:

  1. Hối lộ và tham nhũng là những sinh hoạt thường ngày, mọi nơi, mọi lúc, trên khắp thế giới, không một phút ngừng nghỉ.
    Người ta kêu gào, bài bác sinh hoạt này chỉ khi nào có một phe không hài lòng, hay bị thiệt hại mà thôi.
    Sau đó sinh hoạt lại bình thường trở lại, có khi còn bùng lên gấp bội.
    Những ai muốn phá bỏ hay muốn loại nó ra ngoài vòng pháp luật, thì chỉ là mơ tưởng mà thôi.
    Tiền tạo ra luật đấy....Ở Mỹ mấy chục năm rồi chắc nghiệm ra chứ............

    Trả lờiXóa
  2. Hối lộ để được cái lẽ ra mình phải được nhân . VD tiền lót tay trong Bệnh Viện ; có lẽ phải đặt tên loại tiền này .

    Trả lờiXóa
  3. Một bài viết rất công phu. Hối lộ và tham nhũng ở đâu cũng có, và nó có từ ngàn năm xưa thông qua việc đi triều cống của nước nghèo cống cho nước giàu, của các nước phụ thuộc đi cống cho nước hùng mạnh.. thông qua việc đi triều cống này thì cũng có biết bao nhiêu là người liên đới cho tới khi phẩm vật vào được cửa triều đinh... Ở Đài Loan đến Tổng thống cũng bị bắt vì tội hối lộ và tham nhũng này.

    Vì vậy, dù có đạo luật này nọ, nhưng những hành vi này sẽ vẫn tồn tại.. chỉ là, nó tồn tại trong chừng mực hay trong nhũng nhiễu loạn lạc.. và cuộc sống của người dân trong đất nước đó có quá đau khổ không? Phúc lợi nhân sinh có tốt không? Trộm cướp cờ bạc giết người có lộng hành không?.. Do đó trách nhiệm chống tham nhũng thuộc về toàn dân và người lãnh đạo đất nước, điều hành làm sao để cuộc sống người dân ấm no hạnh phúc và bình yên thì đã là tốt rồi.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Đồng ý với những nhận xét của TTM Gốc Mai. Tham nhũng & Hối lộ ở thời đại nào cũng có nhưng một trong những yếu tố khiến tệ nạn này ngày càng “nở hoa” chính là “môi trường” để chúng phát triển. Nhìn chung, ở các nước Phương Tây tệ nạn này không nhiều vì hệ thống pháp lý nghiêm minh, nhưng nếu có xảy ra thì lại ở mức độ nghiêm trọng hơn tại các nước Phương Đông. Nói như vậy ta lại thấy “trình độ dân trí” của mỗi quốc gia cũng góp một phần không nhỏ trong việc chống Tham nhũng & Hối lộ. Người dân sống tại các nước Phương Tây không bao giờ nghĩ đến chuyện hối lộ cảnh sát giao thông khi họ vi phạm luật lệ, ngược lại ở Phương Đông lại được coi là điều bình thường vì tiền bỏ ra hối lộ vẫn còn thấp hơn tiền nộp phạt…
      Nói như các quan chức chống Tham nhũng & Hối lộ thì rất dễ… nhưng làm thế nào để biến những lời nói thành hành động cụ thể quả là một vấn đề nhức nhối từ ngàn xưa để lại và hình như sẽ còn tiếp diễn đến… ngàn sau!

      Xóa
  4. Chuyện tham nhũng và hối lộ nghe đã nhiều nhưng đến nay mới có một bài viết khá đầy đủ và công phu. Cám ơn anh Chính.HN nghĩ đến mấy ý như sau: 1. Không chừng người đặt bút ký UNCAC 19.8.2009 cũng là người nhận hối lộ? Không khéo còn nhận nhiều là khác! 2. Qua bài này HN mới biết thêm một khái niệm: "hối lộ thành tích". 3. Hình thức hối lộ ở VN ngày càng tinh vi, pháp luật không thể nào trừng trị, nghĩa là người nhận vẫn an nhiên thụ hưởng nhưng thực tế tiền này là mồ hôi nước mắt của bao người lao động, như vậy với người nhận, đây là một thứ "của phù vân" và nếu anh không thì con cháu anh sẽ bị XỬ bởi luật Trời! 4. Chữ "mãi lộ" anh dùng ở trên hình như không liên quan đến hối lộ mà nó là một dạng tiền nộp cho người làm chủ/ tự mình nhận là chủ của một đoạn đường (phí giao thông)? Anh xem lại thử nhé.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Đúng như anh HN nói, hiểu theo nghĩa xưa, mãi lộ là tiền phải nộp cho bọn côn đồ, kẻ cướp mỗi khi qua một đoạn đường mà chúng hùng cứ, như ta thường thấy trong các truyện Tầu như Thủy Hử ngày xưa.
      Theo nghĩa ngày nay, mãi lộ chính là đồng tiền bất chính nhưng lại nhân danh luật pháp để nhận từ người đi đường, những đồng tiền đó chạy vào túi riêng của của nhân viên nhà nước, chẳng hạn như CSGT tham nhũng. Nếu hiểu theo nghĩa này thì mãi lộ chính là đồng tiền hối lộ của người sử dụng các tiện nghi công cộng như đường xá, cầu cống để đút lót cho những người có nhiệm vụ kiểm tra trên đoạn đường đó.

      Xóa
    2. Năm vừa rồi, lúc con trai xuống xuất trình giấy tờ do.. điều khiển xe qua ngã tư mà đi thẳng, trong khi xe đi trước và sau thì không thấy bạn của dân ngoắc vào? M ngồi ghế trên nhìn qua kiếng chiếu hậu của xe hơi thấy hình ảnh "mãi lộ" đó nên có chụp vài tấm hình, hình ảnh của hai người nằm gọn trong kiếng chiếu hậu xe mà M cho là "đẹp" nhất.

      Xóa
  5. cũng tại ng ta thích đưa hối lộ nên mới có tham nhũng

    Trả lờiXóa
  6. Chào anh Chính. Xin phép anh cho tôi đăng lại bài này ở: https://nuocnha.blogspot.com

    Trả lờiXóa

Popular posts